Thứ Năm, 28 tháng 8, 2008

THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNHCHÍNH

I. TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH
1. Khái niệm
a. Một số quan niệm về tài phán hành chính
a.1. Quan niệm của một số nước trên thế giới (N/C)
Khi nghiên cứu về tố tụng hành chính và Luật tố tụng hành chính ở nước ta hiện nay, cần thiết phải hiểu rõ những quan niệm về tài phán nói chung và tài phán hành chính nói riêng. Tìm hiểu mối quan hệ giữa hành chính tài phán và hành chính quản lý vốn được xem là hai mặt đối lập và thống nhất trong khái niệm hành chính nói chung (Luật hành chính – Pháp). Đặc biệt là tìm hiểu về tài phán hành chính theo quan niệm của một số quốc gia trên thế giới
- “Tài phán hành chính” được xem là một nội dung của họat động “tài phán” nói chung, bên cạnh “tài phán tư pháp”.
- Thuật ngữ “tài phán” có tiếng gốc La-tinh là “Juridictio”, được tìm thấy trong tiếng Anh với cách phát âm tương tự là “Juridiction”.
+ Theo nghĩa rộng: thuật ngữ “tài phán” có nghĩa là phán quyền, tức là quyền lực của Chính phủ (bên cạnh việc sử dụng quyền điều hành hành chính) trong việc phán quyết tính đúng, sai của các hoạt động hành chính diễn ra trong một phạm vi lãnh thổ nhất định.
+ Theo nghĩa hẹp: thuật ngữ “tài phán” được sử dụng để chỉ thẩm quyền đặc thù của cơ quan Tòa án trong việc lắng nghe, xem xét, đánh giá và ra các phán quyết được thể hiện trong bản án hay quyết định của tòa án đối với một vụ việc cụ thể.
- Với cách hiểu trên, “tài phán” không chỉ là hoạt động xét xử của Tòa án mà còn bao hàm cả hoạt động giải quyết các tranh chấp thuộc thẩm quyền của các cơ quan hành chính. Như vậy, khái niệm tài phán rộng hơn khái niệm xét xử.
- Theo từ điển pháp lý Nhật – Anh: thuật ngữ “tài phán hành chính” được sử dụng trong tiếng Anh là “Judicial review of administrative action” có nghĩa là quyền pháp lụât trao cho Tòa án được tuyên bố về một hành vi hay quyết định hành chính nào đó có hiệu lực hay không, có đảm bảo tính hợp hiến hay không. Tòa án này có thể là Tòa án tư pháp cũng có thể là Tòa án hành chính độc lập.
=> Như vậy, tài phán hành chính có thể hiểu theo nghĩa là quyền phán xét tính đúng sai của một quyết định hành chính hay hành vi hành chính nào đó không chỉ thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính mà còn thuộc thẩm quyền của Tòa án.
a.2. Quan niệm ở Việt Nam
* Những hoạt động có tính chất tài phán trước đây (N/C)
- Đời nhà Lý (1010 - 1225), năm 1028 vua Lý Thái Tông lên ngôi đã kiện toàn một bước bộ máy nhà nước, cho phép “đặt hai bên tả hữu thềm rồng hai lầu chuông” để người dân khi muốn kiện một quan lại nào đó thì đánh chuông để Vua hoặc các quan lại triều đình phán xét.
- Đời nhà Trần (1226 – 1400), bên cạnh các cơ quan và chức quan đã có ở thời Lý, nhà Vua đã đặt thêm nhiều cơ quan và chức quan mới chuyên trách giải quyết việc kiện tụng hành chính:
+ Tam ty viện: có chức năng giám sát việc thi hành pháp luật của các quan lại.
+ Bình bạc ty ở Thăng long: trông coi việc hình án và kiện tụng
+ Chức Ngự sử đài đại phu và Tung tán nắm phép tắc nhà nước: có nhiệm vụ chuyển giấy tờ trình nhà Vua, chuyển đơn khiếu tố của tất cả các nơi lên nhà Vua, kiểm tra, giám sát và phát hiện lầm lỡ của các quan lại lên nhà Vua...
- Đời nhà Lê sơ (1428 – 1527), với sự ra đời của Bộ luật Hồng đức năm 1483 đánh dấu bước phát triển mới trong họat động lập pháp của Nhà nước phong kiến. Bộ luật gồm 722 điều trong đó có nhiều chế định liên quan đến luật hành chính và tố tụng hành chính
+ Người dân có thể thực hiện việc kiện tụng theo 4 cấp: xã quan, huyện quan, phủ quan và triều đình
+ Người dân có thể tự mình thực hiện việc khiếu kiện hoặc cử người hầu kiện thay...
- Dưới triều Nguyễn (1802 – 1858)
+ Năm 1804, Vua Gia long lập ra Đô sát viện: là nơi tiếp nhận tố cáo, buộc tội các quan lại, tâu trình lên vua những điều hay nên làm, điều dở nên tránh
+ Năm 1832, Vua Minh Mạng đã lập ra Tam pháp ty: định kỳ hội đồng của Tam pháp ty có nhiệm vụ nhận đơn khiếu nại, bàn bạc và làm tờ trình vua, được giải quyết khi Vua ủy quyền.
+ Năm 1815, Bộ luật Gia Long ra đời với 938 điều là sản phẩm lập pháp cao nhất dưới thời Lý, có nhiều điều khoản quy định hành vi phạm pháp của quan lại trong triều khi thi hành nhiệm vụ công với các hình thức chế tài: xuy, tượng, phạt bỗng, giáng cấp...
- Năm 1945, Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hòa ra đời, các họat động có tính chất tài phán hành chính do các cơ quan nhà nước mới đảm nhiệm. quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được quy định trong Hiến pháp 1946.
* Quan niệm về tài phàn hành chính ở nước ta hiện nay
- Tài phán hành chính ở Việt nam trước khi Tòa hành chính được thành lập (01.07.1996) có những đặc điểm sau:
+ Cá nhân và tổ chức có quyền khiếu nại đối với các quyết định hoặc hành vi của cơ quan tổ chức và cán bộ phát sinh trên tất cả các lĩnh vực của quản lý hành chính.
+ Cơ quan hành chính, cán bộ có thẩm quyền ban hành quyết định hoặc thực hiện hành vi hành chính bị khiếu nại được trao quyền giải quyết khiếu nại đó. Cơ chế này được xem là cơ chế : “Bộ trưởng – Quan tòa”. Nghĩa là cơ quan hành chính là người bị khiếu nại đồng thời cũng là người giải quyết khiếu nại.
+ Hệ thống thanh tra được trao quyền giải quyết khiếu nại nhưng quyền lực thực tế bị hạn chế
+ Công dân cùng một lúc có thể gửi khiếu nại lên nhiều cơ quan khác nhau, sau đó khiếu nại sẽ được chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Do vậy, người dân mất nhiều thời gian chờ đợi.
+ Trách nhiệm của từng cơ quan giải quyết khiếu nại chưa được quy định rõ ràng.
- Ngaøy 21/05/1996, Phaùp leänh thuû tuïc giaûi quyeát caùc vuï aùn haønh chính ñöôïc ban haønh (coù hieäu löïc ngaøy 01/07/1996)
- Tòa hành chính được thiết lập và được trao quyền xét xử các vụ kiện hành chính kể từ ngày 01/07/1996, đánh dấu bước phát triển mới củaViệt Nam về hoàn thiện các khái niệm khoa học pháp lý, phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học pháp lý về tài phán trên thế giới.
- Tài phán hành chính được hiểu là hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính giữa công quyền và công dân được thực hiện bởi cơ quan tài phán độc lập đó là Tòa án.
- Tài phán hành chính ở nước ta hiện nay, mang những đặc điểm của tài phán nói chung , đồng thời có nét đặc thù riêng phù hợp với bản chất của Nhà nước.

Khái niệm: Tài phán hành chính là hoạt động xét xừ các vụ án hành chính, theo quy định của Lụât tố tụng hành chính, do Tòa hành chính và các thẩm phán hành chính thực hiện nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và cơ quan Nhà nước, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước

2. Đặc điểm của tài phán hành chính ở nước ta hiện nay: (N/C)
- Tài phán hành chính là tổ chức và hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính phát sinh khi có đơn khởi kiện vụ án hành chính giữa công dân, tổ chức với công quyền.
- Cơ quan tài phán hành chính ở nước ta là Tòa hành chính thuộc Tòa án nhân dân
- Đối tượng của tài phán hành chính ở nước ta là các quyết định hành chính hoặc các hành vi hành chính bị khởi kiện.
- Bên bị kiện trong vụ án hành chính luôn luôn là cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức Nhà nước.
- Hoạt động tài phán hành chính phải tuân theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hành chính quy định.

3. Luật tố tụng hành chính

III. ĐỐI TƯỢNG XÉT XỬ CỦA TÒA HÀNH CHÍNH
Đối tượng mà tòa án hành chính xem xét giải quyết bao gồm Quyết định hành chính, hành vi hành chính.

1- Quyết định hành chính (Đ.4-PL)
Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính Nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong họat động quản lý hành chính.
Loại văn bản này được cơ quan Nhà nước sử dụng để giải quyết các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình. Nhưng trong tường hợp việc ra quyết định đó đã trực tiếp gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
YÊU CẦU Quyết định hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu tòa án giải quyết vụ án hành chính, Phải là quyết định hành chính lần đầu
CĂN CỨ Nghị quyết số 03/2003/NQ-HĐTP ngày 18-04-2003 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao (Hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính) quy định những quyết định sau là quyết định hành chính lần đầu

1. Sau khi ban hành quyết định hành chính nhưng chưa có khiếu nại, cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền đã ban hành quyết định hành chính khác thay thế quyết định hành chính trước, thì quyết định mới được ban hành này là quyết định hành chính lần đầu.

2. Sau khi ban hành quyết định hành chính nhưng chưa có khiếu nại, cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền đã ban hành quyết định hành chính khác sửa đổi, bổ sung một số điểm của quyết định hành chính trước thì phần của quyết định hành chính trước không bị sửa đổi, hủy bỏ và quyết định bổ sung, sửa đổi một số điểm của quyết định hành chính trước đều là quyết định hành chính lần đầu.
Chú ý:
Đối với hai trường hợp trên, nếu các quyết định sau được ban hành sau khi cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền đã nhận được đơn khiếu nại và các quyết định đó là kết quả giải quyết khiết nại, thì các quyết định sau là quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu chứ không phải là quyết định hành chính lần đầu.
3. Sau khi người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc TAND có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính ra quyết định hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính bị khiếu nại hoặc bị khởi kiện giao cho cơ quan hành chính hoặc người có thẩm quyền giải quyết và kết quả giải quyết là cơ quan hành chính hoặc người có thẩm quyền đã ra quyết định hành chính mới, thì quyết định mới này là quyết định hành chính lần đầu.

4. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo ngoài việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính bị khiếu nại, còn quyết định thêm về một hoặc một số vấn đề hoàn tòan mới chưa có trong quyết định bị khiếu nại, thì quyết định về một hoặc một số vấn đề hoàn toàn mới này là quyết định hành chính lần đầu.
QĐ thêm về 1 v/đề mới chưa có trong QĐ bị k/nại

5. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo ra quyết định hủy bỏ quyết định bị khiếu nại và ra quyết định mới giải quyết vụ việc đó, thì quyết định mới này là quyết định hành chính lần đầu.
Người có thẩm quyền GQ k/nại tiếp theo ra QĐ hủy bỏ QĐ bị k/nại
- Quá trình xét xử, nếu thấy quyết định trên rõ ràng là trái pháp luật, vi phạm quyền công dân thì tòa hành chính có thể xử hủy bỏ hoặc sửa đổi quyết định, nếu có thiệt hại xảy ra thì buộc bồi thường...
- Mỗi lần bị xét xử như vậy là một lần để cơ quan Nhà nước, bị kiện có thêm kinh nghiệm, rút ra bài học thực tiễn nhằm thận trọng hơn.
2. Hành vi hành chính
Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình thực hiện công vụ, người thực hiện có thể gây xâm hại đến quyền hoặc thiệt hại đến tài sản hợp pháp của công dân.
Ví dụ
1- Trong khi đuổi bắt cướp, chiến sỹ cảnh sát có thể va quẹt gây tai nạn giao thông, làm hư hỏng tài sản. Mặc dù, người dân đó đi đúng luật giao thông (hành động).
2- Công dân có đủ điều kiện để xin sửa chữa nhà ... Nhưng quá thời hạn qui định mà cơ quan quản lý nhà đất vẫn im lặng (không hành động).

IV. THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA HÀNH CHÍNH:
Các khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
1. Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính;
2. Khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính;
3. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính;
4. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính bằng một trong các hình thức giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính;
5. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác;
6. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và chứng chỉ hành nghề hoặc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính khác liên quan đến hoạt động kinh doanh, tài chính của thương nhân;
7. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến thương mại hàng hoá quốc tế hoặc trong nước;
8. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến chuyển giao tài chính trong nước và quốc tế, dịch vụ và cung ứng dịch vụ;
9. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản;
10. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế;
11. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng phí, thu phí, lệ phí; thu tiền sử dụng đất;
12. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ;
13. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về đầu tư;
14. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hải quan, công chức hải quan;
15. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý hộ tịch;
16. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đối với việc từ chối công chứng, chứng thực;
17. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất;
18. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
19. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống;
20. Khiếu kiện quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư;
21. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
22. Các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”
2. Thaåm quyeàn cuûa toaø aùn caùc caáp
a. Thaåm quyeàn xeùt xöû cuûa toaø aùn nhaân daân caáp huyeän (Ñieàu 12 – PL)
1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Toà án cấp huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây
a) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ với Toà án và của cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước đó;
b) Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ với Toà án đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó;
c) Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng lãnh thổ với Toà án.
b. Thaåm quyeàn xeùt xöû cuûa toaø aùn nhaân daân caáp tænh, thaønh phoá tröïc thuoâc trung öông (Ñieàu 12 – PL)
a) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của Thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện là cá nhân có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ với Toà án;
b) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan chức năng thuộc một trong các cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản này và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, công chức của các cơ quan chức năng đó mà người khởi kiện là cá nhân có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ với Toà án;
c) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ với Toà án và của cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước đó;
d) Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trên cùng lãnh thổ với Toà án đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó, trừ những khiếu kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều này;
đ) Khiếu kiện quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên cùng lãnh thổ với Toà án giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư;
e) Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mà người khởi kiện là cá nhân có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ với Toà án;
g) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp huyện quy định tại khoản 1 Điều này mà Toà án cấp tỉnh lấy lên để giải quyết.”
c. Thaåm quyeàn xeùt xöû cuûa toaø aùn nhaân daân toái cao
Toaø aùn nhaân daân toái cao giaûi quyeát nhöõng khieáu kieän haønh chính thuoäc thaåm quyeàn cuûa toaø aùn nhaân daân caáp tænh maø toaø aùn nhaân daân toái cao laáy leân ñeå giaûi quyeát.
d. Phaân ñònh thaåm quyeàn xeùt xöû vuï aùn haønh chính (Ñieàu 13-PL)

*Giöõa cô quan Nhaø nöôùc caáp treân vôùi toaø aùn coù thaåm quyeàn
a) Trường hợp chỉ có một người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án. Cơ quan đã thụ lý việc giải quyết khiếu nại phải chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án có thẩm quyền;
b) Trường hợp có nhiều người mà họ vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai hoặc trong đó có người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, có người khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai. Toà án đã thụ lý vụ án hành chính phải chuyển hồ sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình;
c) Đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản này, nếu hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính theo thủ tục chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

*Tranh chaáp veà thaåm quyeàn giaûi quyeát caùc vuï aùn haønh chính giöõa caùc Toøa aùn.

3. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Toà án cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chánh án Toà án cấp tỉnh giải quyết.
Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Toà án cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các Toà án cấp tỉnh do Chánh án Toà án nhân dân tối cao giải quyết.”

BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

BÀI V: BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC


I. KHÁI NIỆM, YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÔNG VIỆC ĐẢM BẢO PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.

1. Khái niệm
- Pháp chế XHCN là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị, xã hội. trong đó, tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa có nội dung là sự triệt để tôn trọng pháp luật của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân, là phương thức thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Pháp chế XHCN là một khái niệm rộng bao gồm các mặt: là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước XHCN, là nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể quần chúng, là nguyên tắc xử xự của công dân và nó có liên hệ mật thiết với dân chủ XHCN.
- Bảo đảm pháp chế XHCN là tổng thể các biện pháp, phương tiện, tổ chức pháp lý do các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân áp dụng nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước và các tổ chức ấy cũng như việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân.
- Việc bảo đảm pháp chế có ý nghĩa to lớn đối với quản lý nhà nước nói chung, quản lý hành chính nhà nước nói riêng nếu:
+ Pháp chế được đảm bảo thông qua đường lối chính trị của Đảng cầm quyền.
+ Pháp chế được đảm bảo thông qua các biện pháp xã hội và đạo đức.
+ Pháp chế được đảm bảo thông qua chế độ kinh tế của xã hội.
+ Pháp chế được đảm bảo thông qua các yếu tố pháp lý như thể chế pháp lý, chế định pháp lý, công cụ pháp lý và các biện pháp pháp lý.
2. Các yêu cầu đối với việc đảm bảo pháp chế
- Hoạt động của các cơ quan Nhà nước phải phù hợp với mục đích, nội dung và yêu cầu của văn bản quy phạm pháp luật. Nếu vi phạm sẽ dẫn đến hoạt động tuỳ tiện, không thống nhất, chủ quan duy ý chí của các chủ thể có thẩm quyền...
- Các cơ quan Nhà nước chỉ được hoạt động trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật qui định, không được tiến hành các hoạt động vượt quá hay thu hẹp giới hạn thẩm quyền của mình.
- Khi thực hiện hoạt động quản lý nhà nước, cơ quan Nhà nước thường ban hành các văn bản quản lý Nhà nước mang tính quyền lực Nhà nước để quyết định những vấn đề thuộc phạm vi thẩm quyền của cơ quan đó.
+ Các văn bản này phải có nội dung hình thức phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Chỉ hết hiệu lực khi bị thay thế, hủy bỏ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Các hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật Nhà nước phải dựa trên các nguyên tắc sau
+ Nguyên tắc pháp luật hóa Các hoạt động được thực hiện bởi cơ quan chuyên hay không chuyên trách nhằm duy trì và bảo vệ trật tự pháp luật, như hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm sát...
+ Là cơ sở để chủ thể thực hiện quyền chủ động khi tham gia đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật Nhà nước.
+ Là cơ sở buộc các đối tượng có hành vi xâm phạm pháp chế mà kỷ luật nhà nước không được cản trở hay trốn tránh trách nhiệm khi bị áp dụng các biện pháp trách nhiệm mà Nhà nước đã qui định.
- Nguyên tắc thường xuyên
+ Hoạt động quản lý luôn diễn ra liên tục, làm phát sinh các quan hệ pháp luật cụ thể và có thể xâm hại đến quyền và lợi ích của đối tượng quản lý do những hành vi trái pháp luật và vô kỷ luật của chủ thể quản lý.
+ Nếu không thường xuyên sẽ là nguyên nhân dẫn đến sự phá vỡ trật tự quản lý.
- Nguyên tắc công khai mà hiệu quả, có như vậy mới thu hút được đông đảo các chủ thể tham gia, bảo vệ và kiểm soát việc thi hành pháp luật. Nếu không sẽ làm giảm hiệu quả của việc đảm bảo pháp luật được tôn trọng và kỷ luật được tăng cường.
- Nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước.
+ Đảm bảo nguyên tắc này mới tạo điều kiện cho các cơ quan Nhà nước kiểm soát lẫn nhau trong quá trình thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành.
+ Có nghĩa quan trọng trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, trong việc duy trì trật tự pháp luật Nhà nước xây dựng và bảo vệ.

II. CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước
- Thông qua hoạt động giám sát, cơ quan quyền lực sẽ phát hiện những yếu kém về mặt tổ chức, lệch lạc trong nhận thức, hành động, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích Nhà nước... để từ đó có biện pháp khắc phục, xử lý thích đáng.
- Cơ quan quyền lực có điều kiện kiểm nghiệm về tính hợp lý, hợp pháp của các qui định cũng như các biện pháp quản lý của mình. Để từ đó từng bước nâng cao hiệu quả của quản lý.
a. Hoạt động giám sát của Quốc hội
- Điều 83 – Hiến pháp năm 1992 ngoài chức năng lập hiến, lập pháp, Quốc hội còn “Thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”.
- Hoạt động giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau nghe báo cáo của Chính phủ, các Bộ, thông qua hoạt động giám sát thường xuyên của các tổ đại biểu hoặc các đại biểu đối với hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước.
- Quyền giám sát của Quốc hội đối với quản lý hành chính Nhà nước có phạm vi rất lớn, thể hiện rõ tính quyền lực Nhà nước thành lập, bãi bỏ các cơ quan, các chức danh của bộ máy hành chính Nhà nước... và cả trong hoạt động cụ thể của bộ máy hành chính Nhà nước.
Ví dụ Điều 84 – Hiến pháp 1992 Chỉ có Quốc hội mới có quyền bãi bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật và Nghị quyết của Quốc hội.
b. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
- Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của uỷ ban nhân dân và các cơ quan quản lý chuyên môn ở địa phương. Hội ĐỒNG NHÂN DÂN giám sát bằng cách nghe báo cáo, đánh giá báo cáo của Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân có quyền bãi miễn các chức danh của các cơ quan hành chính địa phương. Có quyền bãi bỏ quyết định sai trái của Ủy ban nhân dân cùng cấp.
- Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước nhưng hoạt động của nó mang tính đặc thù của chính quyền địa phương chấp hành hiến pháp, pháp luât, pháp lệnh. Hội đồng nhân dân nằm dứơi sự kiểm tra hướng dẫn của pháp luật
2. Hoạt động kiểm tra của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước .
Hoạt động kiểm tra của các cơ quan hành chính và cán bộ có thẩm quyền mang tính quyền lực Nhà nước, tính quyền lực thể hiện ở chỗ
- Bên kiểm tra có quyền tiến hành hoạt động một cách đơn phương, chỉ tuân theo pháp luật, không cần sự đồng ý của bên kia.
- Bên kiểm tra có quyền yêu cầu đối tượng bị kiểm tra cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc kiểm tra, bên bị kiểm tra phải chấp hành theo các yêu cầu đó.
- Bên kiểm tra có quyền ra chỉ thị về phương hướng, thời hạn và biện pháp sửa sai sót phát hiện được trong quá trình kiểm tra.
a. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền chung.
- Phạm vi kiểm tra Tất cả mọi lĩnh vực của quản lý hành chính Nhà nước. Đây là hoạt động của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp đối với đối tượng quản lý thuộc thẩm quyền.
- Hình thức kiểm tra nghe, xem xét, đánh giá báo cáo của đối tượng quản lý để kiểm tra chung, hoặc thông qua thanh tra Nhà nước, thanh tra Bộ, sở.
- Khi kiểm tra, cơ quan kiểm tra có quyền ra quyết định kỷ luật cán bộ, cơ quan, tổ chức, đơn vị trực thuộc. Có quyền đình chỉ, bãi bỏ quyết định trái pháp luật.
b. Hoạt động kiểm tra chức năng và kiểm tra nội bộ
- Cơ quan quản lý ngành kiểm tra việc chấp hành pháp luật, đường lối chính sách trong phạm vi ngành, lĩnh vực mình quản lý.
- Nếu có tranh chấp giữa cơ quan kiểm tra và đối tượng bị kiểm tra thì đối tượng bị kiểm tra có quyền kiến nghị với cấp có thẩm quyền nhưng vẫn phải chấp hành quyết định của cơ quan kiểm tra.

- Kiểm tra nội bộ làhoạt động kiểm tra được tiến hành trong nội bộ cơ quan tổ chức bởi thủ trưởng cơ quan, tổ chức, dưới nhiều hình thức khen thưởng, đình chỉ vi phạm kỷ luật ...
c. Hoạt động thanh tra Nhà nước
- Hệ thống cơ quan thanh tra Nhà nước, gồm thanh tra nhà nước, thanh tra tỉnh, thành phố, thanh tra quận, huyện, thị xã...
- Cơ quan thanh tra Nhà nước một mặt trực thuộc cơ quan thanh tra Nhà nước cấp trên, một mặt trực thuộc cơ quan quản lý trực tiếp.
- Riêng thanh tra Nhà nước là cơ quan của Chính hủ có chức năng quản lý Nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện quyền thanh tra trong cả nước.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức thanh tra. (Điều 8 – 9 pháp luật thanh tra 1/4/1990).
+ Xem xét, kiến nghị cấp có thẩm quyền giải quyết hoặc giải quyết theo thẩm quyền khiếu nại, tố cáo.
+ Chỉ đạo về tổ chức và hoạt động thanh tra đối với cơ quan, tổ chức hữu quan.
+ Tuyên truyền, hướng dẫn việc thực hiện pháp luật về thanh tra.
+ Kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền những vấn đề về quản lý Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các qui định phù hợp với yêu cầu quản lý Nhà nước. Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó, các cơ quan thanh tra Nhà nước có quyền
+ Yêu cầu cơ quan đơn vị, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin cần thiết phục vụ cho việc thanh tra, yêu cầu cơ quan đơn vị hữu quan cử người tham gia hoạt động thanh tra.
+ Trưng cầu giám định.
+ Yêu cầu đối tượng bị thanh tra cung cấp tài liệu, báo cáo bằng văn bản, trả lời những chất vấn của tổ chức thanh tra hoặc thanh tra viên, khi cần thiết tiến hành kiểm kê tài sản.
+ Quyết định niêm phong tài liệu, kê biên tài sản, khi có căn cứ để nhận định có vi phạm pháp luật, ra quyết định yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép được cấp hoặc sử dụng trái pháp luật khi xét thấy cần ngăn chặn vi phạm pháp luật hoặc để xác minh tình tiết làm chứng cứ cho việc kết luận, xử lý.
+ Đình chỉ việc làm xét thấy đang hoặc sẽ gây tác hại đến lợi ích, của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.
+ Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định kỷ luật, thuyên chuyển công tác người đang cộng tác với tổ chức thanh tra hoặc đang là đối tượng thanh tra. Nếu xét thấy việc thi hành quyết định gây trở ngại cho công tác thanh tra.
+ Cảnh cáo, tạm đình chỉ công tác nhân viên Nhà nước cố ý cản trở thanh tra hoặc không thực hiện yêu cầu kiến nghị, quyết định của tổ chức thanh tra hoặc thanh tra viên.
+ Kết luận, kiến nghị hoặc quyết định xử lý theo quy định của pháp luật.
+ Chuyển hồ sơ về vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra hình sự có thẩm quyền giải quyết, nếu xét thấy có dấu hiệu cấu thành tội phạm.

Tóm lại, hoạt động thanh tra có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo thực thi pháp luật của tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức và cá nhân trong quá trình quản lý hành chính Nhà nước. Hoạt động thanh tra góp phần phát hiện ra các vi phạm pháp luật và ngăn chặn vi phạm pháp luật, góp phần củng cố hoạt động của bộ máy Nhà nước, đội ngũ viên chức Nhà nước.
-> Cho nên trong công cuộc cải cách bộ máy Nhà nước, việc đổi mới tổ chức và oạt động thanh tra là rất cần thiết.
d. Kiểm toán Nhà nước một hình thức kiểm tra đặc biệt với hoạt động hành chính Nhà nước.
- Nhiệm vụ kiểm toán Nhà nước là xây dựng kế hoạch kiểm toán hàng năm, cung cấp kết quả kiểm toán cho chính phủ, xác nhận, đánh giá, nhận xét các tài liệu, số liệu kế toán...
- Kiểm toán Nhà nước có quyền yêu cầu đơ vị được kiểm toán và các đơn vị có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết để thưc hiện nhiệm vụ kiểm toán.

3. Hoạt động kiểm sát của viện kiểm sát nhân dân
- Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các văn bản do các Bộ, cơ quan ngan Bộ, cơ quan thuộc chính phủ,... ban hành. Đồng thời kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong hành vi của các nhân viên Nhà nước.
- Viện kiểm sát là cơ quan giám sát đối với hoạt động của các cơ quan hành chính từ Bộ trở xuống.
+Viện kiểm sát không được can thiệp vào hoạt động điều hành của các cơ quan hành chính Nhà nước. Không được sửa đổi, bãi bỏ quyết định của đối tượng bị kiểm sát.
+ Viện kiểm sát có quyền kiến nghị, kháng nghị về tình không phù hợp của quyết định đó.
4. Hoạt động của toà án nhân dân trong việc đảm bảo pháp chế và kỷ luật Nhà nước.
a. Toà án nhân dân góp phần đảm bảo pháp chế và kỷ luật Nhà nước thông qua hoạt động xét xử các vụ án, hình sự, dân sự lao động, hông nhân gia đình, kinh tế.
- Trong quá trình xét xử vụ án hình sự, tòa án kiểm tra tính hợp pháp của các quyết định, giấy tờ có liên quan. Nếu co sai thì có biện pháp khắc phục, xử lý đúng pháp luật.
- Trong các vụ án dân sự, lao động Toà án sẽ xem xét tính hợp pháp của từng quyết định, từng văn bản cụ thể.
Việc xét xử giải quyết tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật, Toà án không chỉ xử lý nghiêm minh người vi phạm mà còn góp phần đảm bảo pháp chế và kỷ luật Nhà nước.
b. Toà án nhân dân góp phần bảo đảm pháp chế và kỷ luật Nhà nước thông qua tài phán hành chính.
- Tòa án hành chính xét xử các hành vi hành chính và quyết định hành chính bị khiếu kiện.
- Quá xét xử tòa án trực tiếp kiểm tra, giám sát và có thể xử lý đối với hoạt động của hành chính Nhà nước -> có giá trị tích cực trong việc bảo đảm pháp chế và kỷ luật Nhà nước.
5. Hoạt động kiểm tra Đảng, kiểm tra giám sát của các tổ chức xã hội và công dân.
a. Kiểm tra Đảng
- Kiểm tra Đảng là chức năng không thể tách rời quyền lãnh đạo của Đảng, vì Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn diện, mọi mặt hoạt động của Nhà nước Việt Nam.
- Hình thức kiểm tra thông qua việc nghe đảng viên lãnh đạo cơ quan Nhà nước tương ứng báo cáo, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết của Đảng trong các đảng viên.
- Cơ quan Đảng kiểm tra việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhưng được đình chỉ sửa đổi, bãi bỏ quyết định không hợp pháp của cơ quan Nhà nước.
- Lãnh đạo cơ quan quản lý phải tạo mọi điều kiện thuận lợi phối hợp với cơ quan Đảng trong quá trình kiểm tra.

b. Kiểm tra, giám sát của tổ chức xã hội
- Kiểm tra xã hội là việc nhân dân lao động tham gia vào quản lý Nhà nước, quản lý xã hội thông qua hoạt động kiểm tra của các tổ chức xã hội đối với cơ quan Nhà nước, cán bộ Nhà nước trong việc thực hiện pháp luật.
- Giám sát, kiểm tra xã hội được thực hiện bởi nhân dân, không gắ nvới việc thực hiện quyền lực Nhà nước, không mang tính cưỡng chế Nhà nước.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra nhân dân
+ Giám sát việc tuân theo pháp luật và quy định của cơ quan Nhà nước các cấp đối với cá nhân, tổ chức trong phạm vi địa phương mình.
+ Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn.
+ Kiến nghị với Ủy ban nhân dân cấp xã, thủ trưởng cơ quan mà mình kiểm tra khi phát hiện thấy dấu hiệu vi phạm pháp luật và giám sát kiến nghị.
- Kiến nghị Ủy ban nhân dân, thủ trưởng cơ quan đơn vị khen thưởng, xử lý đơn vị, cá nhân có thành tích hoặc có vi phạm.
- Phối hợp với thanh tra Nhà nước khi thanh tra ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình.
c. Hoạt động khiếu nại, tố cáo của công dân
- Đây là hình thức đặc biệt quan trọng để nhân dân lao động tham gia vào quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.
- Tại điều 1 - Pháp luật khiếu nại , tố cáo của công dân ngày 2/5/1991 khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quyết định và việc làm trái pháp luật thuộc phạm vi quản lý hành chính của cơ quan Nhà nước và nhân viên Nhà nước xâm phạm quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình” và “ tố cáo với cơ quan Nhà nước, tổ chức kiểm tra, tổ chức xã hội...”.
- Những biện pháp đảm bảo pháp lý đối với người khiếu nại, tố cáo.
+ Mọi công dân đều có quyền khiếu nại, tố cáo để bảo vệ quyền, lợi ích của mình, của người khác, tập thể, Nhà nước, không bị hạn chế bất cứ điều kiện nào.
+ Người khiếu nại tố cáo được đảm bảo tránh mọi sự đe dọa hay trả thù.
+ Người khiếu nại, tố cáo không phải chịu trách nhiệm pháp lý nếu đó là sự thật. Ngược lại, phải chịu trách nhiệm pháp lý trước Nhà nước..

CÁC HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

CHƯƠNG IV
CÁC HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

I. Hình thức và phương pháp quản lý hành chính nhà nước.
1. Hình thức quản lý hành chính nhà nước.
a. Khái niệm hình thức quản lý hành chính nhà nước.
Theo đại từ điển Tiếng việt – NXBVHTT – 1998 thì Hình thức là cái bên ngoài, cái chứa đựng nội dung.
Vậy ta có thể hiểu hình thức quản lý hành chính nhà nước là sự biểu hiện bên ngoài của nội dung hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Ơ chương II, chúng ta đã nghiên cứu khái niệm quản lý hành chính nhà nước. Theo đó:
Quản lý hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của nhà nước được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hoá, xã hội và hành chính – chính trị.
Nói cách khác đó là hoạt động chấp hành và điều hành của Nhà nước.
Qua các nội dung đã nghiên cứu chúng ta thấy rằng chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính Nhà nước và phương pháp thực hiện chức năng đó là nội dung của quản lý hành chính, nội dung này được biểu hiện ra bên ngoài dưới những hình thức nhất định.
Ví dụ:
Trong thời gian qua, tình hình TTATGT ở nước ta diễn biến phức tạp. TNGT gia tăng trên cả 3 mặt: số vụ, số người chết và số người bị thương. Đứng trước tình hình đó, Chính Phủ đã có nhiều biện pháp khác nhau để giảm thiểu TNGT và UTGT. Các biện pháp đó được thể hiện ra bên ngoài dưới các hoạt động cụ thể sau:
1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể là Chính phủ đã ban hành:
- Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP ngày 29/6/2007 về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế TNGT và UTGT.
- Nghị định 146/2007/NĐ-CP quy định xử phạt VPHC trên lĩnh vực GTĐB ngày 14/9/2007 để thay thế cho Nghị định số 152/2005/NĐ-CP.
2. Tổ chức tuyên truyền các VBPL trên đến mọi người dân thông qua nhiều hình thức khác nhau…
3. Tổ chức phân luồng, phân tuyến giao thông, đăng ký, quản lý phương tiện giao thông, sát hạch cấp GPLX.
4. Kiểm tra việc chấp hành các quy định của luật GTĐB ...
5. Ra các quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với những người vi phạm luật giao thông đường bộ.
Phân tích ví dụ trên ta thấy để đảm bảo TTATGT các chủ thể QLHCNN sử dụng nhiều biện pháp khác nhau và các biện pháp đó được biểu hiện ra bên ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau như: ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, ban hành các quyết định xử phạt vi phạm hành chính về TTATGT, thực hiện các hoạt động tổ chức trực tiếp...
Các biểu hiện ra bên ngoài của chủ thể quản lý hành chính nhà nước để tác động đến đối tượng quản lý nhằm đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ như trên là các hình thức quản lý hành chính nhà nước.
Qua nội dung đã trình bày, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về hình thức quản lý hành chính nhà nước như sau:
Hình thức quản lý hành chính Nhà nước là sự biểu hiện ra bên ngoài của hoạt động quản lý, cùng loại về nội dung, tính chất và phương thức tác động của chủ thể lên khách thể, đối tượng quản lý.
Trong khái niệm này, chúng ta cần chú ý các nội dung sau đây:
- Hình thức quản lý hành chính nhà nước do chủ thể QLHCNN mà chủ yếu là do các cơ quan QLHCNN và những người có thẩm quyền trong các cơ quan này sử dụng để tác động đến đối tượng quản lý là các cá nhân và tổ chức nhằm đạt được những hành vi xử sự cần thiết.
- QLHCNN được thể hiện ra bên ngoài dưới nhiều hoạt động cụ thể khác nhau, tuy nhiên hình thức quản lý hành chính chỉ là những nhóm hoạt động có cùng nội dung, tính chất và phương thức tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý, chẳng hạn như ban hành VBQPPL, ban hành VBADQPPL, tiến hành những hoạt động tổ chức trực tiếp…
- Hình thức quản lý hành chính nhà nước do pháp luật quy định về thẩm quyền, trình tự thủ tục. Chính vì thế mà việc quyết định sử dụng hình thức QLHCNN nào, các chủ thể quản lý phải căn cứ vào pháp luật.
Trên đây, chúng ta vừa nghiên cứu phần a.khái niệm hình thức QLHCNN. Để hiểu rõ hơn về các hình thức QLHCNN, chúng ta chuyển sang nghiên cứu nội dung tiếp theo.
b. Các hình thức quản lý hành chính nhà nước
Quản lý hành chính nhà nước được biểu hiện ra bên ngoài bằng nhiều hoạt động cụ thể khác nhau, tuy nhiên căn cứ vào nội dung, tính chất và phương thức tác động của chủ thể quản lý lên khách thể, đối tượng quản lý, chúng ta có thể phân loại các hình thức quản lý hành chính nhà nước thành 5 hình thức sau đây:
- Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật.
- Thực hiện các hoạt động khác mang tính pháp lý.
- Tiến hành các hoạt động tổ chức trực tiếp.
- Thực hiện những tác động về nghiệp vụ – kỹ thuật.

b.1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định; trong đĩ, chứa đựng cc quy tắc xử xự chung, được nh nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Trong QLHCNN, hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hình thức QLHCNN quan trọng của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước nhằm thực hiện chức năng chấp hành và điều hành.
Hình thức này có những đặc điểm sau:
+ Các VBQPPL do các cơ quan QLHCNN ban hành nhằm mục đích cụ thể hóa, chi tiết hóa luật, pháp lệnh và các văn bản của cơ quan quản lý cấp trên.
+ Văn bản quy phạm pháp luật là phương tiện quan trọng để các chủ thể QLHCNN thực hiện chức năng điều hành.
Văn bản quy phạm pháp luật là phương tiện hữu hiệu để các chủ thể quản lý hành chính nhà nước tác động tích cực lên các lĩnh vực của đời sống xã hội thuộc quyền quản lý của mình trong khuôn khổ những yêu cầu chung của luật.
Cụ thể là thông qua hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính, các chủ thể của quản lý hành chính nhà nước:
Ø Ấn định các quy tắc xử sự chung trong quản lý hành chính Nhà nước.
Ø Qui định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính Nhà nước.
Ø Qui định những hạn chế và những điều ngăn cấm.
Ø Quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động của chủ thể quản lý…
- Yêu cầu khi ban hành VBQPPL:
+ Đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục.
+ Phù hợp với nội dung và mục đích của Luật, nghị quyết của cơ quan quyền lực và các văn bản do cơ quan quản lý cấp trên ban hành.
(Theo báo cáo số 2770/BC-BTP của Bộ Tư Pháp ngày 16/9/2005 bá cáo TTCP về kết quả kiểm tra VBQPPL của các Tỉnh, TP trực thuộc TW về xử lý vi phạm hành chính của các địa phương gởi về Bộ Tư Pháp để kiểm tra đã phát hiện 91 văn bản của 31 Tỉnh, TP trực thuộc TW ban hành trái với quy định của PLXLVPHC2002)
+ Phải bảo đảm tính kịp thời, phải thường xuyên rà soát để bổ sung những quy định không phù hợp, gây khó khăn cho quá trình quản lý.
Ví dụ:
Quy định về mức xử phạt đối với tài xế xe khách có hành vi chở người vượt quá số ghế quy định của NĐ 152.

b.2. Ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật.
- Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật là văn bản thi hành của văn bản quy phạm pháp luật, văn bản này được ban hành trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật nhằm giải quyết các công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức.
Ví dụ: Quyết định xử phạt hành chính Nguyễn Văn An do đã có hành vi không đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên môtô xe máy trên đoạn đường bắt buộc đội mũ bảo hiểm là một văn bản áp dụng quy phạm pháp luật. Văn bản này được ban hành căn cứ vào điểm g-khoản 3–Điều 9 – Nghị định 146/2007/NĐ-CP.
- Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật có những đặc điểm sau:
+ Do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định. Và được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế nhà nước.
+ Chứa đựng nội dung để giải quyết một vấn đề cụ thể. Được áp dụng một lần cho một hoặc một số đối tượng nhất định.
Đây là đặc trưng thể hiện sự khác biệt lớn nhất giữa văn bản áp dụng quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật.
+ Được ban hành trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật, trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính cụ thể.
- Hình thức ban hành văn bản ADQPPL là hình thức hoạt động chủ yếu để các cơ quan QLHCNN sử dụng để giải quyết các công việc cụ thể, hàng ngày. Do đó VBADQPPL có số lượng rất lớn, có nội dung, tính chất và mục đích rất khác nhau. Tuy nhiên, căn cứ vào mục đích áp dụng, chúng ta có thể chia chúng thành hai nhóm lớn sau đây:
+ Những văn bản chấp hành pháp luật.
Trong trường hợp ban hành văn bản chấp hành pháp luật các chủ thể QLHCNN áp dụng hoặc hiện thực hóa phần quy định của quy phạm pháp luật tương ứng. Đây là hoạt động mang tính tích cực, thông qua hoạt động này quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước được hiện thực hoá trong thực tế.
Ví dụ: quyết định bổ nhiệm, quyết định cấp đất, quyết định chuyển mục đích sử dụng đất…
+ Những văn bản bảo vệ pháp pháp luật.
Trong trường hợp ban hành những văn bản bảo vệ pháp luật, các chủ thể QLHCNN áp dụng hoặc hiện thực hoá phần chế tài của quy phạm pháp luật tương ứng (ví dụ: quyết định xử phạt). Đây là hoạt động không thể thiếu của các chủ thể QLHCNN để đảm bảo pháp chế và kỷ luật nhà nước. Trên cơ sở những VBADQPPL loại này trách nhiệm hành chính của cá nhân, tổ chức vi phạm mới được phát sinh. Do đó các văn bản này có vai trị rất quan trọng để bảo vệ trật tự quản lý.
- Yêu cầu khi ban hành VBADQPPL:
+ Đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục
+ Chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản phải có kiến thức pháp lý và chuyên môn cần thiết, thận trọng trong từng trường hợp, xem xét kỹ mọi mặt của vấn đề cần giải quyết … để có thể đưa ra quyết định đúng đắn và hợp lý.

b.3. Thực hiện những hoạt động khác mang tính chất pháp lý
- Những hoạt động mang tính chất pháp lý là những hoạt đọng do các chủ thể quản lý hành chính nhà nước tiến hành khi phát sinh những điều kiện tương ứng được quy định trước trong các văn bản quy phạm pháp luật nhưng không cần ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật.
Những hoạt động mang tính pháp lý bao gồm rất nhiều các hoạt động cụ thể khác nhau, và được sử dụng phổ biến. Có thể kể đến như các hoạt động sau đây:
Những hoạt động mang tính pháp lý gồm:
+ Thứ nhất: Ap dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn và phòng ngừa vi phạm pháp luật như kiểm tra giấy phép lái xe, kiểm tra việc đăng ký tạm trú, tạm vắng…
Ví dụ:
CSKV tiến hành kiểm tra tạm trú, tạm vắng, CSGT kiểm tra các loại giấy tờ của người điều khiển phương tiện giao thông.
+ Thứ hai: Đăng ký những sự kiện nhất định: như đăng ký hộ tịch, đăng ký cư trú…
+ Thứ ba: Lập và cấp một số giấy tờ nhất định như cấp giấy phép lái xe, cấp bằng tốt nghiệp...
+ Thứ tư: Công chứng, chứng thực.
Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thoả thuận khác.
Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Toà án tuyên bố là vô hiệu.
Chứng thực là việc Uy ban nhân dân cấp Huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ.
+ Thứ năm: Lập biên bản VPHC.
Biên bản vi phạm hành chính: là văn bản của người có thẩm quyền ghi lại sự việc thực hiện hành vi vi phạm hành chính của cá nhân hoặc tổ chức để làm cơ sở cho cá nhân hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật phải tiến hành xử lý. Biên bản phải được lập theo đúng quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Các hoạt động mang tính pháp lý là hình thức quản lý hành chính nhà nước quan trọng, được thực hiện một cách rộng rãi, khi thực hiện các hoạt động này, chúng ta cần chú ý các đặc điểm sau:
- Đặc điểm của các hoạt động mang tính chất pháp lý:
+ Thứ nhất: Hoạt động này phải do cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành.
+ Thứ hai: Hoạt động này không có tác động pháp lý trực tiếp nhưng gián tiếp làm phát sinh những hậu quả pháp lý nhất định.
+ Thứ ba: Hình thức này chỉ tiến hành khi phát sinh những điều kiện tương ứng được quy định trước trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Như vậy, thực hiện các hoạt động mang tính pháp lý là hình thức hoạt động của các chủ thể QLHCNN để tổ chức thực hiện các văn bản QPPL. Các hoạt động này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến quyền và nghĩa vụ của công dân. Chính vì vậy khi thực hiện các hoạt động mang tính pháp lý đòi hỏi chủ thể quản lý phải thực hiện đúng yêu cầu theo của pháp luật về trình tự, thủ tục, thẩm quyền.
b.4. Áp dụng những biện pháp tổ chức trực tiếp:
- Ap dụng những biện pháp tổ chức trực tiếp là hình thức hoạt động không mang tính pháp lý do chủ thể quản lý hành chính nhà nước tiến hành nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi để ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định quản lý.
Tiến hành các hoạt động tổ chức trực tiếp gồm các hoạt động nghiên cứu, tổng kết và phổ biến những kinh nghiệm tiên tiến, áp dụng các biện pháp cụ thể nhằm ứng dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào quản lý, tổ chức kiểm tra, điều phối hoạt động, tổ chức hội thảo, tổ chức phong trào thi đua, v.v..
Ví dụ:
Tổ chức hội nghị tổng kết năm, tổ chức míttinh tuyên truyền luật giao thông…
Ap dụng các biện pháp tổ chức trực tiếp là hình thức quản lý được các chủ thể QLHCNN sử dụng rộng rãi. Khi thực hiện các hoạt động này, chúng ta cần chú ý các đặc điểm sau:
- Đặc điểm:
+ Đây là hình thức không mang tính pháp lý, nhằm mục đích trợ giúp cho các hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật, ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật, thực hiện những hoạt động mang tính pháp lý.
Ví dụ: tổ chức hội nghị, hội thảo lấy ý kiến đóng góp dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật.
+ Các hoạt động tổ chức trực tiếp thường rất đa dạng và phong phú, thể hiện sự sáng tạo của cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
b.5 Thực hiện những tác động về nghiệp vụ – kỹ thuật
- Thực hiện những tác động về nghiệp vụ – kỹ thuật: là hoạt động sử dụng kiến thức nghiệp vụ, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào quá trình quản lý hành chính nhà nước.
Ví dụ: Việc sử dụng máy vi tính phục vụ cho công tác tác quản lý phương tiện giao thông... Sử dụng máy đo tốc độ có camera ghi hình, máy đo nồng độ cồn để làm căn cứ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về GTĐB, sử dụng CNTT để quản lý dữ liệu cư trú…
Thực hiện những tác động về nghiệp vụ – kỹ thuật có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao hiệu suất công tác của bộ máy hành chính nhà nước, đảm bảo công tác quản lý hành chính nhà nước được tiến hành một cách nhanh chóng, hiệu quả và chính xác.
Như vậy, chúng ta vừa nghiên cứu các hình thức QLHCNN, Qua nghiên cứu nội dung này, đề nghị các đ/c trả lời câu hỏi tự học sau đây:
Trong 5 hình thức QLHCNN này có mối quan hệ với nhau như thế nào? Có hình thức nào là quan trọng nhất không? Vì sao?

2. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước:
a. Khái niệm phương pháp QLHCNN.
Theo Đại từ điển Tiếng việt – NXBVHTT-1998 thì Phương pháp là cách thức tiến hành để có hiệu quả cao.
Phương pháp quản lý hành chính nhà nước là cách thức thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước, cách thức tác động của chủ thể quản lý hành chính lên các đối tượng quản lý nhằm đạt được những hành vi xử sự cần thiết.

Từ khái niệm này, chúng ta thấy phương pháp QLHCNN có những đặc điểm sau đây:
- Phương pháp QLHCNN do các chủ thể QLHCNN tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Chủ thể sử dụng các phương pháp QLHCNN chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền trong bộ máy hành chính nhà nước như: Chính phủ, các Bộ, UBND các cấp, các cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND… và các cán bộ công chức có thẩm quyền trong các cơ quan này.
Mục đích của việc sử dụng các phương pháp QLHCNN là nhằm tác động tới đối tượng quản lý để đảm bảo hành vi xử sự cần thiết của đối tượng quản lý nhằm duy trì trật tự quản lý hoặc thực hiện các chủ trương, chính sách của chủ thể quản lý.
- Phương pháp QLHCNN là cách thức thực hiện quyền lực nhà nước trong quản lý.
Khác với các tổ chức chính trị, chính trị xã hội khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình các chủ thể QLHCNN đại diện nhà nước, mang quyền lực nhà nước. Nên khác với phương pháp quản lý của các tổ chức xã hội chủ yếu là thuyết phục, phương pháp QLHCNN không chỉ là thuyết phục đối tượng quản lý mà còn được thực hiện bằng các mệnh lệnh hành chính, bằng sự cưỡng bức thực hiện thông qua các biện pháp cưỡng chế do pháp luật quy định.
- Những phương pháp quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước được thể hiện dưới những hình thức QLHCNN nhất định và được tiến hành trong giới hạn do pháp luật quy định.
Phương pháp QLHCNN được thể hiện dưới những hình thức như: ban hành VBQPPL, ban hành văn bản ADQPPL, thực hiện các hoạt động khác mang tính pháp lý…
Ngoài ra, phương pháp QLHCNN phải được tiến hành trong khuôn khổ của pháp luật, nhất là những phương pháp có tính chất hạn chế quyền của đối tượng quản lý. Các phương pháp này được pháp luật quy định chăt chẽ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng.
Chẳng hạn như việc thực hiện phương pháp cưỡng chế. Không phải bất kỳ cơ quan QLHCNN nào cũng có quyền áp dụng phương pháp cưỡng chế mà chỉ những cơ quan và người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật mới được áp dụng phương pháp cưỡng chế. Và mức độ áp dụng phương pháp cưỡng chế của các chủ thể đó cũng khác nhau tùy theo vị trí pháp lý của nó trong hệ thống cơ quan QLHCNN.

b. Những yêu cầu đối với phương pháp QLHCNN.
(SV tự nghiên cứu)
- Các phương pháp quản lý phải có khả năng quản lý lên các lĩnh vực chủ yếu của quản lý hành chính nhà nước.
- Phương pháp quản lý phải đa dạng, thích hợp để tác động lên những đối tượng khác nhau.
- Phương pháp quản lý phải có tính hiện thực.
- Phương pháp quản lý phải có khả năng đem lại hiệu quả cao.
- Phương pháp quản lý phải mềm dẻo và linh hoạt.
- Phương pháp quản lý phải có tính sáng tạo.
- Phương pháp quản lý phải hoàn toàn phù hợp với đường lối chính trị quy định chương trình quản lý trong từng giai đoạn cụ thể.
Các yêu cầu này của phương pháp QLHCNN đề nghị các đ/c tự nghiên cứu và trả lời câu hỏi sau đây:
Khi lựa chọn các phương pháp QLHCNN để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình các chủ thể QLHCNN phải chú ý những vấn đề gì?

c. Những phương pháp quản lý hành chính nhà nước:
Như chúng ta đã được nghiên cứu, quản lý là sự tác động đến nhận thức và hành vi của con người. Trên thực tế, có hai khả năng tác động:
Khả năng thứ nhất là sử dụng tổng hợp những biện pháp và cách thức khác nhau để đảm bảo đạt được hành vi xử sự cần thiết một cách tự giác.
Khả năng thứ hai là sử dụng tổng hợp những biện pháp và cách thức khác nhau để bắt buộc thực hiện hành vi xử sự cần thiết.
Kết hợp những khả năng này dẫn đến hình thành những phương pháp quản lý hành chính sau đây: Phương pháp thuyết phục, phương pháp cưỡng chế, phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế.

c.1. Phương pháp thuyết phục
- Thuyết phục là gì?
Theo cách hiểu thông thường, thì thuyết phục là làm cho người khác thấy đúng, thấy hay mà tin theo, làm theo.(Từ Điển TV)
Thuyết phục trong quản lý hành chính nhà nước là làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện những hành vi nhất định hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định.
-> Như vậy:
Thuyết phục là hoạt động do các chủ thể quản lý hành chính nhà nước (chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước) tiến hành, thông qua tuyên truyền, giáo dục, giải thích, hướng dẫn, nêu gương nhằm tạo ra ý thức về lối sống cộng đồng, ý thức pháp luật của mỗi công dân, tạo ra thói quen sống và làm việc theo pháp luật.
Trong khái niệm này, chúng ta cần chú ý các nội dung sau:
+ Phương pháp thuyết phục do chủ thể QLHCNN sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình.
+ Bản chất của phương pháp thuyết phục là làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định.
+ Phương pháp thuyết phục được thể hiện bằng những hoạt động như: giải thích, động viên, hướng dẫn, chứng minh... làm cho đối tượng hiểu rõ và tự giác chấp hành các yêu cầu của chủ thể quản lý.
- Cơ sở của phương pháp thuyết phục.
Trong QLHCNN, các chủ thể quản lý được sử dụng quyền lực nhà nước, được sử dụng các biện pháp cưỡng chế bắt buộc đối tượng quản lý phải tuân thủ những yêu cầu của mình, vậy vì sao vẫn cần phải sử dụng phương pháp thuyết phục?
Phương pháp thuyết phục rất cần thiết, và trong thực tế đó là phương pháp chủ yếu để các chủ thể QLHCNN thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì phương pháp này có những cơ sở sau đây:
+ Thứ nhất, do bản chất của nhà nước.
Như chúng ta đã được nghiên cứu. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ quan quản lý hành chính nhà nước là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, để đảm bảo sự phát triển mọi mặt của các tầng lớp nhân dân. Do đó lợi ích của chủ thể QLHCNN và đối tượng QLHCNN không mâu thuẫn, đối lập nhau mà thống nhất với nhau. Chính vì thế mà phương pháp thuyết phục có cơ sở xã hội vững chắc và không riêng gì trong QLHCNN, mà trong tất cả các hoạt động của mình, phương pháp chủ yếu được các chủ thể QLNN sử dụng là phương pháp thuyết phục.
+ Thứ hai, do những hiệu quả của phương pháp thuyết phục mang lại trong hoạt động QLHCNN.
· Qua thực tiễn của QLHCNN, chúng ta thấy những nhiệm vụ và mục tiêu của QLHCNN chỉ có thể thực hiện được thông qua ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người dân. Bởi vì sự tự giác thực hiện bao giờ cũng mang lại những hiệu quả tốt hơn sự cưỡng chế, bắt buộc phải thực hiện.
Ví vụ:
Việc chấp hành quy định bắt buộc đội MBH.
· Ngoài ra hiệu quả do phương pháp thuyết phục mang lại còn được thể hiện ở chỗ, khi người dân đã nhận thức được sự cần thiết phải thực hiện các quy định của pháp luật thì họ không chỉ tự giác chấp hành mà còn tham gia tích cực vào các công tác của QLHCNN, sáng tạo ra những cách làm hay, mang lại nhiều hiệu quả thiết thực.
Ví dụ:
Bộ CA đã phát đông phong trào quần chúng tham gia bảo vệ ANTQ. Hưởng ứng phong trào này, ở rất nhiều địa phương, quần chúng nhân dân đã có nhiều cách làm sáng tạo, nhiều mô hình hay để cùng lực lượng CAND đấu tranh phòng chống tội phạm và các loại TNXH…
- Yêu cầu của phương pháp thuyết phục.
+ Thuyết phục là sự tác động đến nhận thức của đối tượng quản lý, do đó việc thuyết phục phải được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, kiên trì nhằm hình thành tri thức pháp luật, lòng tin vào pháp luật và có nhu cầu xử xự theo đúng pháp luật. Muốn vậy phải chỉ cho đối tượng quản lý thấy rõ lợi ích thiết thân của họ khi thực hiện theo các yêu cầu của chủ thể quản lý.
+ Phải kết hợp chặt chẽ với các tổ chức xã hội. Thông qua hoạt động của các Tổ chức xã hội để phát huy sự nhiệt tình, sự sáng tạo và tính chủ động của các đối tượng quản lý trong việc tham gia giải quyết các yêu cầu đặt ra cho quản lý hành chính nhà nước.
+ Thuyết phục phải được tiến hành bằng nhiều hình thức với các phương tiện đa dạng, phong phú, sinh động.

c.2. Phương pháp cưỡng chế
- Khái niệm
Theo đại từ điển Tiếng việt – NXBVHTT – 1998 thì cưỡng chế là bắt buộc phải tuân theo bằng sức mạnh quyền lực.
Theo cách hiểu như vậy thì cưỡng chế nhà nước là sự bắt buộc phải tuân theo bằng sức mạnh quyền lực nhà nước.
Ví dụ:
CSGT đình chỉ hành vi vi phạm luật GTĐB của người tham gia giao thông. (Phim)
Trong đoạn phim vừa rồi, chúng ta thấy rằng người điều khiển xe mô tô đã không đội MBH trên đoạn đường bắt buộc đội MBH và đã bị CSGT đình chỉ hành vi vi phạm.
Trong trường hợp CSGT đã sử dụng sức mạnh quyền lực nhà nước để buộc người vi phạm thực hiện theo yêu cầu của mình. Đây chính là biểu hiện cụ thể của phương pháp cưỡng chế.
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về phương pháp cưỡng chế như sau:
Cưỡng chế là biện pháp bắt buộc bằng bạo lực của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền đối với những cá nhân, tổ chức nhất định trong những trường hợp pháp luật quy định buộc cá nhân, tổ chức đó phải thực hiện hay không thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục tùng những hạn chế về mặt tài sản hoặc tự do thân thể.
Khái niệm này có các nội dung sau đây:
+ Chủ thể áp dụng phương pháp cưỡng chế phải là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. chẳng hạn như: cơ quan CA, UBND…
+ Đối tượng bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế là cá nhân, tổ chức nhất định trong những trường hợp pháp luật quy định. Chẳng hạn như: cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính.
Thông thường các biện pháp cưỡng chế được áp dụng khi quyết định của các chủ thể QLHCNN không được tự giác chấp hành.
+ Biểu hiện của phương pháp cưỡng chế là buộc cá nhân, tổ chức phải chấp hành các quyết định đơn phương của chủ thể quản lý. Cụ thể là buộc cá nhân, tổ chức phải thực hiện hay không thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục tùng những hạn chế nhất định về mặt tài sản của cá nhân, tổ chức hoặc tự do thân thể của cá nhân.
Câu hỏi đặt ra là việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế có trái với nguyên tắc nhân đạo và dân chủ của nhà nước ta hay không?
Chúng ta thấy rằng cưỡng chế nhà nước có vai trò rất quan trọng để đảm bảo pháp chế và kỷ luật nhà nước. Bởi vì đất nước ta trong giai đoạn hiện nay vẫn còn tội phạm và vi phạm pháp luật, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chống phá trật tự QLHCNN của nước ta, bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận người dân có ý thức chấp hành pháp luật kém vẫn không tự giác chấp hành các quy định của pháp luật. Chính vì vậy, bên cạnh phương pháp thuyết phục, để đảm bảo thực hiện được các chức năng và nhiệm vụ của mình thì đòi hỏi chủ thể QLHCNN phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
- Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, khoa học pháp lý chia cưỡng chế nhà nước thành 4 loại: Cưỡng chế hình sự, cưỡng chế dân sự, cưỡng chế kỷ luật và cưỡng chế hành chính.
+ Cưỡng chế hình sự: là biện pháp cưỡng chế do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội hoặc bị tình nghi phạm tội.
+ Cưỡng chế dân sư: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm dân sự, gây thiệt hại cho nhà nước, tập thể hoặc công dân.
+ Cưỡng chế kỷ luật: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng đối với những cán bộ công chức có hành vi vi phạm kỷ luật nhà nước.
+ Cường chế hành chính: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan và người có thẩm quyền quyết định áp dụng đối với cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm hành chính hoặc đối với một số cá nhân, tổ chức nhất định với mục đích ngăn chặn hay phòng ngừa các VPPL, vì lý do an ninh, quốc phòng hoặc vì lợi ích quốc gia.
Trong đó cưỡng chế hình sự và cưỡng chế dân sự, các đ/c sẽ được nghiên cứu ở các môn luật khác, cưỡng chế kỷ luật các đ/c đã được nghiên cứu ở phần cán bộ công chức. Ơ đây, chúng ta chỉ đi sâu nghiên cứu cưỡng chế hành chính.

- Cưỡng chế hành chính có những đặc điểm sau đây:
+ Cưỡng chế hành chính do các chủ thể QLHCNN có thẩm quyền áp dụng.
Cưỡng chế hành chính chủ yếu do cơ quan quản lý hành chính nhà nước áp dụng (công an, kiểm lâm, thuế…). Tòa án chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính nhà nước trong những trường hợp nhất định như xử phạt người có hành vi gây rối trật tự phiên tòa…
+ Cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền áp dụng cưỡng chế hành chính và cá nhân, tổ chức bị áp dụng cưỡng chế không nằm trong quan hê trực thuộc trên dưới về tổ chức, mà chỉ có quan hệ kiểm tra, giám sát.
Ví dụ: giữa CSGT và người vi phạm các quy định TTATGT.
+ Cưỡng chế hành chính được áp dụng theo thủ tục do pháp luật hành chính quy định.
Cưỡng chế hành chính nằm ngoài trình tự xét xử của Tòa án, nó được áp dụng theo những trình tự được quy định ở những quy phạm thủ tục hành chính.
Như vậy, cưỡng chế hành chính được các cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng theo trình tự, thủ tục được quy định tại các quy phạm thủ tục hành chính. Thông thường, thủ tục áp dụng cưỡng chế hành chính thường đơn giản và năng động hơn so với trình tự áp dụng cưỡng chế hình sự và cưỡng chế kỷ luật.
+ Cưỡng chế hành chính được áp dụng nhằm mục đích: phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm pháp luật; trừng phạt người vi phạm theo trình tự xử lý hành chính; đảm bảo trật tự trong các trường hợp khẩn cấp khi chưa xảy ra vi phạm pháp luật.

Căn cứ vào mục đích áp dụng có thể phân loại các biện pháp cưỡng chế hành chính thành bốn nhóm:
Ø Phòng ngừa hành chính
Phòng ngừa hành chính là biện pháp do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền áp dụng nhằm phòng ngừa vi phạm pháp luật có thể xảy ra hoặc hạn chế những thiệt hại do thiên tai, dịch họa gây ra.
Những biện pháp phòng ngừa gồm:
v Kiểm tra giấy tờ, kiểm tra hộ khẩu, hàng hóa, hành lý… nhằm ngăn ngừa những vi phạm pháp luật.
v Ngăn cấm hoặc hạn chế đi vào khu vực nguy hiểm, khu vực đang xảy ra dịch bệnh truyền nhiễm…
v Kiểm tra bắt buộc định kỳ sức khoẻ của những người làm công việc dịch vụ có liên quan đến thực phẩm và dịch vụ khác dễ lan truyền dịch bệnh cho những người hưởng dịch vụ…
Tính chất cưỡng chế của các các biện pháp phòng ngừa thể hiện ở chỗ, việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa không cần sự đồng ý của đối tượng bị áp dụng và quyết định phòng ngừa phải được chấp hành.
Chú ý: các biện pháp PNHC không liên quan đến vi phạm pháp luật.
Ví dụ: tiêu hủy gia cầm khi có dịch.
Ø Ngăn chặn hành chính.
Ngăn chặn hành chính là các biện pháp được các cơ quan hành chính và người có thẩm quyền áp dụng trong các trường hợp cần thiết để chặn lại hành vi vi phạm pháp luật đang diễn ra hay ngăn chặn hậu quả, thiệt hại do chúng gây ra. Ngoài ra các biện pháp này còn được áp dụng để phát hiện vi phạm hành chính.
Các biện pháp ngăn chặn hành chính rất bao gồm:
v Đình chỉ những hành vi vi phạm pháp luật do các cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng.
v Sử dụng vũ lực, vũ khí khi có hành vi chống đối việc thi hành công vụ hoặc trốn tránh trách nhiệm.
v Tạm giữ người, tang vật theo thủ tục hành chính
v Khám người, tang vật, phương tiện vận tải, nơi cất giấu tang vật, phương tiện theo thủ tục hành chính.
Ø Các biện pháp được áp dụng trong trường hợp thật cần thiết vì lí do an ninh quốc phòng và vì lợi ích quốc gia.
Đó là các biện pháp như: di dân, giải phóng mặt bằng, trưng dụng, trưng mua tài sản…
Ø Các biện pháp trách nhiệm hành chính:
Gồm các biện pháp xử phạt VPHC và các biện páp xử lý hành chính khác.
Các biện pháp cụ thể này sẽ được chúng ta nghiên cứu trong phần vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính.

Như vậy, chúng ta vừa nghiên cứu nội dung của phương pháp cưỡng chế. Qua nội dung này đề nghị các đ/c trả lời câu hỏi sau:
Vì sao cần phải kết hợp giữa phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế?

c.3. Phương pháp hành chính
- Khái niệm
Phương pháp hành chính là phương thức tác động tới cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng quản lý bằng cách quy định trực tiếp nghĩa vụ của họ qua những mệnh lệnh dựa trên quyền lực nhà nước và phục tùng.
- Đặc điểm của phương pháp hành chính
+ Đặc trưng của phương pháp này là sự tác động trực tiếp của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng cách đơn phương quy định nhiệm vụ và phương án hành động của đối tượng quản lý.
Chủ thể quản lý có quyền đưa ra nhiệm vụ và phương án hành động của đối tượng quản lý, có quyền kiểm tra việc thực hiện các mệnh lệnh của mình và có quyền áp dụng các hình thức kỷ luật nếu mệnh lệnh của mình không được chấp hành.
+ Phương pháp này được tiến hành trong khuôn khổ của pháp luật.
Phương pháp hành chính được tiến hành trong khuôn khổ của pháp luật, có nghĩa là các quyết định hành chính được ban hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể quản lý do pháp luật quy định.
Ví dụ: Chủ tịch UBND các cấp chỉ được ra chỉ thị, kiểm tra hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong khuôn khổ, chức năng, quyền hạn của mình do pháp luật quy định.
Tóm lại, phương pháp hành chính là phương thức tác động đến cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng quản lý thông qua quy định trực tiếp nghĩa vụ của họ, qua những mệnh lệnh và sự phục tùng.
Sử dụng phương pháp rất cần thiết trong hoạt động quản lý bởi vì cơ quan quản lý hành chính nhà nước nào cũng phải dùng quyền lực nhà nước để quản lý. Tuy nhiên phương pháp hành chính phải được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật và đặc biệt là phương pháp hành chính cần phải kết hợp với phương pháp kinh tế.

c.4. Phương pháp kinh tế
- Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động gián tiếp đến hành vi của các đối tượng quản lý thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế tác động đến lợi ích của con người.
- Đặc điểm của phương pháp kinh tế
+ Đây là phương pháp tác động gián tiếp đến đối tượng quản lý thông qua lợi ích kinh tế.
Khác với phương pháp hành chính là sự tác động trực tiếp của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý bằng các mệnh lệnh hành chính, phương pháp kinh tế tác động một cách gián tiếp đến đối tượng quản lý bằng các lợi ích kinh tế.
Ví dụ: Việc quy định chế độ thưởng, người lao động nào cũng muốn được thưởng mức cao nhất. Muốn vậy họ phải cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
+ Phương pháp kinh tế được thể hiện trong việc sử dụng đòn bẩy kinh tế như: quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; chế độ hạch toán kinh tế, chế độ thưởng… nhằm tạo điều kiện vật chất thuận lợi cho hoạt động có hiệu quả của đối tượng quản lý phát huy năng lực sáng tạo, chọn cách tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ.
Chúng ta vưà nghiên cứu phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế. Câu hỏi đặt ra cho các đồng chí là:
Mối quan hệ giữa phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế?


II. Vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính.
1. Vi phạm hành chính
a. Khái niệm VPHC
Trong pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 không trực tiếp định nghĩa vi phạm hành chính mà chỉ đưa ra quy định về xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. Cụ thể là:
Khoản 2 – Điều 1 – PLXLVPHC năm 2002 quy định: “ Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Khoản 2 – Điều 1 – PLXLVPHC năm 2002 quy định: “Các biện pháp xử lý hành chính khác được áp dụng đối với cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn x hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại các điều 23, 24, 25, 26 và 27 của Pháp lệnh ny”
Như vậy, trên cơ sở những quy định này chúng ta có thể định nghĩa về vi phạm hành chính như sau:
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử lý hành chính.
Qua định nghĩa vừa nghiên cứu, chúng ta thấy vi phạm hành chính có những đặc điểm sau đây:
*/ Thứ nhất, Vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, xâm phạm vào các quy tắc QLNN.
Là một loại vi phạm pháp luật nên vi phạm hành chính trước tiên phải là hành vi xác định của con người.
µ Vậy, các đ/c hiểu thế nào là hành vi?
“Hành vi được hiểu là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể, phản ánh ý thức chủ quan của con người”.
Ví dụ: trèo qua dải phân cách, điều khiển xe o tô, cho thuê mũ bảo hiểm…
µ Vì sao VPHC phải là hành vi mà không phải là những biểu hiện tâm lý hay những tư tưởng, suy nghĩ ?
Về vấn đề này Các Mác đã viết: “Ngoài những hành vi của mình ra, tôi hoàn toàn không tồn tại đối với pháp luật, hoàn toàn không phải là đối tượng của nó”. Điều đó có nghĩa là con người chỉ phải chịu sự tác động của pháp luật thông qua hành vi của mình. Những suy nghĩ, quan điểm, tư tưởng xấu chưa thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi thì chưa phải là vi phạm pháp luật.
Như vậy, vi phạm hành chính là hành vi xác định của con người tuy nhiên đó phải là hành vi trái pháp luật, xâm phạm vào các quy tắc QLNN.
Như các đ/c đã nghiên cứu, trong quản lý nhà nước, để đảm bảo trật tự quản lý, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành các quy tắc sử xự chung buộc mọi cá nhân, tổ chức phải chấp hành. Chẳng hạn, các quy tắc QLNN trong lĩnh vực GTĐB; các quy tắc QLNN trên lĩnh vực VHTT… Và vi phạm hành chính là hành vi xâm phạm vào các quy tắc QLNN này. Việc xâm phạm vào các quy tắc QLNN được thể hiện ở chỗ: VPHC là những hành vi được thực hiện ngược lại với các quy tắc QLNN, đó là việc thực hiện những điều mà các quy tắc QLNN ngăn cấm hoặc không thực hiện theo những yêu cầu mà các quy tắc QLNN bắt buộc phải thực hiện.
Ví dụ:
Hành vi trèo qua dải phân cách để băng qua đường trong TH 1
Trong TH này, những công nhân đã có hành vi trèo qua dải phân cách để băng qua đường. Tuy nhiên tại Khoản 4 – Điều 30 – Luật GTĐB đã quy định: “Trên đường có dải phân cách, người đi bộ không được vượt qua dải phân cách”. Như vậy, hành vi trèo qua dải phân cách để băng qua đường đã xâm phạm các quy tắc QLNN trên lĩnh vực GTĐB.
Như vậy, vi phạm hành chính là hành vi xâm phạm vào các quy tắc QLNN. Và căn cứ vào các lĩnh vực QLNN khác nhau, chúng ta có thể phân loại vi phạm hành chính thành các nhóm khác nhau như: vi phạm hành chính trên lĩnh vực GTĐB, vi phạm hành chính trên lĩnh vực ANTT- ATXH, vi phạm hành chính trên lĩnh vực môi trường, lao động, đất đai, HNGĐ…
*/ Thứ hai, Vi phạm hành chính do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.
- Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi.
Cũng giống như các loại VPPL khác, để xác định hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện có phải là VPHC hay không thì cần phải xác định được dấu hiệu lỗi của hành vi.
Lỗi là trạng thái tâm lý của người vi phạm, biểu hiện thái độ của người đó đối với hành vi vi phạm pháp luật của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra.
Như vậy, người thực hiện hành vi trái pháp luật hành chính bị coi là có lỗi nếu người đó có đủ khả năng nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, có khả năng điều khiển hành vi nhưng vẫn lựa chọn việc thực hiện hành vi trái pháp luật hành chính.
Về mặt hình thức, lỗi được thể hiện ở 2 dạng là lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý.
+ Lỗi cố ý: là trường hợp mà người vi phạm khi thực hiện hành vi trái pháp luật hành chính nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi do mình thực hiện, thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Ví dụ:
Hành vi rải đinh trên đường bộ do Nguyễn Văn Trí thực hiện sau đây:
Nguyễn Văn Trí, sinh năm 1970, ngụ tại Phường Phú Hòa – TX TDM – BD, do nhà Trí ở sát đường QL 13 nên Trí đã mở tiệm để sửa xe gắn máy. Vào ngày 20/6/2007, do thấy ít khách nên Trí đã tự chế ra một loại đinh nhỏ và đem rải dọc đoạn đường gần quán sửa xe của mình nhằm làm thủng xăm xe máy của người đi đường để họ vào tiệm sửa xe của Trí để vá xe.
Như vậy, Trí đã có hành vi ném đinh, rải đinh hoặc vật sắc nhọn trên đường bộ. Đây là hành vi đã xâm phạm vào các quy tắc QLNN trên lĩnh vực GTĐB và hành vi này theo quy định tại khoản 5 – Điều 18 – Nghị định 152/2005/NĐ-CP thì bị phạt tiền với mức tiền phạt từ 2.000.000 đến 3.000.000 đồng.
Trong tình huống này, Trí đã nhận thức được hành vi rải đinh trên đường bộ là hành vi nguy hiểm cho người tham gia giao thông và bị pháp luật ngăn cấm nhưng vì mục đích vụ lợi Trí vẫn thực hiện hành vi vi phạm nói trên. Chính vì vậy đây là VPHC được thực hiện với hình thức lỗi cố ý.
+ Lỗi vô ý: Là trường hợp mà người thực hiện hành vi vi phạm đã không nhận thức được hậu quả và tính chất nguy hiểm của hành vi mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Hoặc người vi phạm tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được
Ví dụ: Hành vi xả nước thải, gây ô nhiễm môi trường của nhà máy bột giặt Visô.
Nhà máy bột giặt Vi Sô – đóng tại xã An Phú - H. Thuận An – BD đã lắp đặt hệ thống đường ống ngầm xử lý chất thải. Nhưng trong quá trình sản xuất do thiếu kiểm tra nên hệ thống đường ống này bị rò rỉ và nước thải đã chảy ra ngoài gây ô nhiễm nguồn nước.
Trong trường hợp này, do thiếu sự kiểm tra mà Cty Viso đã không nhận thức được hậu quả do hành vi vi phạm của mình gây ra mặc dù pháp luật bắt buộc điều đó. Chính vì vậy, đây là VPHC được thực hiện với lỗi vô ý.
Tóm lại, VPHC phải là hành vi có lỗi. Còn hành vi dù có nguy hiểm cho xã hội nhưng nếu người thực hiện hành vi này không có lỗi thì cũng không phải là vi phạm hành chính. Chẳng hạn như: hành vi do người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi thực hiện thì không thể là vi phạm hành chính.
Hay hành vi được thực hiện trong trường hợp sự kiện bất ngờ, là trường hợp người thực hiện hành vi không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi thì không phải là VPHC.
Như vậy, để xác định có vi phạm hành chính xảy ra hay không, chúng ta phải xác định được dấu hiệu lỗi của chủ thể vi phạm hành chính. Tuy nhiên, như chúng ta vừa nghiên cứu lỗi là trạng thái tâm lý của con người, vậy khi chủ thể của vi phạm hành chính là tổ chức thì dấu hiệu lỗi được xác định như thế nào?
Vấn đề xác định lỗi trong vi phạm hành chính do tổ chức thực hiện hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng, lỗi là trạng thái tâm lý cá nhân trong khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính nên không đặt ra vấn đề lỗi đối với tổ chức vi phạm hành chính. Khi xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức, chỉ cần xác định tổ chức đó có hành vi trái pháp luật hành chính và hành vi đó theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính là đủ điều kiện để xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức.
Có quan điểm lại cho rằng, cần phải xác định lỗi của tổ chức khi vi phạm hành chính thì mới có đầy đủ cơ sở để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức vi phạm. Theo quan điểm này, lỗi của tổ chức được xác định thông qua lỗi của các thành viên trong tổ chức đó khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao.
Tuy nhiên PLXLVPHC 2002 chỉ quy định chung rằng tổ chức phải chịu trách nhiệm về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra và có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Đồng thời nó có trách nhiệm xác định lỗi của người thuộc tổ chức mình trực tiếp gây ra vi phạm hành chính trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được giao để truy cứu TNKL và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
- Chủ thể của vi phạm hành chính là cá nhân hoặc tổ chức có đủ năng lực trách nhiệm hành chính.
Đây là điểm khác biệt giữa VPHC với một số loại vi phạm pháp luật khác như tội phạm hay vi phạm kỷ luật. Bởi vì chủ thể của tội phạm chỉ có thể là cá nhân có năng lực TNHS, chủ thể của VPKL chỉ có thể là cá nhân cán bộ, công chức, còn chủ thể của vi phạm hành chính ngoài cá nhân còn có thể là tổ chức. Và ngay cả các cơ quan quản lý nhà nước cũng có thể là chủ thể của VPHC.
Tuy nhiên cá nhân, tổ chức chỉ có thể trở thành chủ thể của vi phạm hành chính khi cá nhân, tổ chức đó phải có đủ năng lực TNHC.
Năng lực trách nhiệm hành chính là khả năng của cá nhân, tổ chức để gánh chịu TNHC khi thực hiện hành vi VPHC. Năng lực TNHC gồm có năng lực pháp luật hành chính và năng lực hành vi hành chính.
- Đối với cá nhân: Cá nhân có đủ năng lực TNHC khi cá nhân đó phải là người không mắc các bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và đạt độ tuổi chịu TNHC do pháp luật quy định. Cụ thể là:
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính với lỗi cố ý.
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính trong mọi trường hợp.
- Đối với tổ chức: Năng lực trách nhiệm hành chính của tổ chức xuất hiện khi nó được thành lập theo đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, tổ chức là chủ thể của vi phạm hành chính bao gồm các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang…
Câu hỏi tự nghiên cứu:
Trong trường hợp nào thì cá nhân, tổ chức nước ngoài là chủ thể của VPHC theo quy định của pháp luật nước ta?
*/ Thứ ba, Vi phạm hành chính là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội nhưng mức độ nguy hiểm thấp hơn tội phạm.
- Cũng giống như vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm hành chính cũng là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của vi phạm hành chính thể hiện ở 2 điểm sau đây:
µ Thứ nhất, vi phạm hành chính là những hành vi đã gây ra những hậu quả, thiệt hại cụ thể cho xã hội. Đó có thể là những thiệt hại về mặt vật chất, thiệt hại về mặt thể chất hoặc những thiệt hại về mặt tinh thần cho xã hội.
Ví dụ:hành vi xả nước thải gây ô nhiễm môi trường của nhà máy Đại Tây Dương sau đây:
µ Thứ hai, Tính nguy hiểm của hành vi vi phạm hành chính còn thể hiện ở chỗ hành vi vi phạm hành chính đe doạ gây ra những thiệt hại cho cá nhân, tổ chức và xã hội.
- VPHC có mức độ nguy hiểm thấp hơn tội phạm.
Mức độ nguy hiểm của vi phạm hành chính thấp hơn so với tội phạm được thể hiện trên nhiều yếu tố khác nhau như: tầm quan trọng của QHXH bị xâm hại; phương thức, thủ đoạn thực hiện hành vi; mức độ hậu quả, thiệt hại; hình thức lỗi, động cơ, mục đích; nhân thân của người vi phạm; thời gian, địa điểm ...
Chẳng hạn, chúng ta xem xét yếu tố mức độ hậu quả thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra: Thông thường vi phạm hành chính chưa gây ra hậu quả, thiệt hại cụ thể cho xã hội hoặc hậu quả, thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra không đáng kể. Còn tội phạm là hành vi đã gây ra những thiệt hại đáng kể cho xã hội. Mức độ thiệt hại được thể hiện ở các dấu hiệu như: tỷ lệ gây thương tích, giá trị tài sản bị xâm hại, giá trị hàng hóa phạm pháp...
Ví dụ:
Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên thì phạm vào tội cố ý gây thương tích được quy định tại Điều 104 – BLHS. Nếu mức độ gây thương tích cho nạn nhân dưới mức quy định nêu trên và không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1- Đ104 thì người vi phạm bị xử phạt hành chính về hành vi “đánh nhau” theo quy định của điểm a, khoản 2 – Điều 7 Nghị định 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 của Chính Phủ.
Hoặc là:
Người nào trộm cắp tài sản có giá trị từ 500.000đ trở lên thì phạm vào tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 – BLHS, còn nếu giá trị tài sản trộm cắp được dưới 500.000 đồng và không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1- Đ138 thì người vi phạm chỉ bị xử phạt hành chính về hành vi “trộm cắp vặt” theo quy định của Điểm a, Khoản 1, Điều 18 Nghị định 150/CP ngày 12/12/2005.
+ Hay chúng ta xem xét yếu tố nhân thân người vi phạm: chúng ta thấy rằng trong nhiều trường hợp mặc dù hậu quả, thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra chưa đáng kể nhưng nếu người vi phạm đã bị xử phạt hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật thì vẫn bị xem là tội phạm.
Ví dụ:
Hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới 500.000 đồng, nếu thực hiện lần đầu thì chỉ bị xem là hành vi VPHC. Nhưng nếu người thực hiện hành vi này đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi chiếm đoạt tài sản mà chưa hết thời hạn để được xem là chưa bị xử phạt hành chính hoặc chưa bị xử lý kỷ luật thì hành vi này không còn là VPHC nữa mà người vi phạm đã phạm vào tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 – BLHS.
*/ Thứ tư, vi phạm hành chính là hành vi theo quy định của pháp luật phải bị xử lý hành chính.
Đây là đặc điểm có tính quy kết, vì nhà làm luật quy định những hành vi nào là vi phạm hành chính đồng thời quy định biện pháp xử lý đối với hành vi đó.
Theo quy định của PLXLVPHC năm 2002 được UBTVQH sửa đổi, bổ sung vào ngày 8/3/2007 thì các biện pháp xử lý vi phạm hành chính gồm có các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác. Các biện pháp xử phạt hành chính gồm có 2 hình thức xử phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền, 2 hình thức xử phạt bổ sung là tước quyền xử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề và tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính và hình thức xử phạt trục xuất. Còn các biện pháp xử lý hành chính khác gồm có 4 biện pháp: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào CSCB và đưa vào CSGD.
Như vậy, vi phạm hành chính phải là hành vi được ấn định một hình thức, mức xử phạt nhất định hoặc bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. Còn những hành vi do tổ chức, cá nhân thực hiện mặc dù là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào trật tự quản lý nhưng nếu chưa bị pháp luật quy định là bị xử lý hành chính thì không phải là vi phạm hành chính.
Ví dụ:
Hành vi rải đinh hoặc vật sắc nhọn trên đường bộ.
Tóm lại, VPHC là hành vi theo quy định của pháp luật phải bị xử lý hành chính. Hiện nay, căn cứ vào pháp lệnh XLVPHC 2002, Chính phủ đã ban hành hơn 60 Nghị định quy định về xử phạt VPHC, trong đó quy định hàng vạn hành vi VPHC và hình thức, mức xử phạt đối với cá nhân, tổ chức có các hành vi vi phạm này. Chẳng hạn Nghị định 146/2007/NĐ-CP quy định hình thức, mức xử phạt đối với các hành vi VPHC trên lĩnh vực GTĐB, Nghị định 150/2005/NĐ-CP quy định hình thức, mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính trên lĩnh vực ANTT-ATXH …
Như vậy, vi phạm hành chính là hành vi theo quy định của pháp luật phải bị xử lý hành chính.
b. Các yếu tố cấu thành VPHC
*. Khách thể của vi phạm hành chính.
Khách thể của vi phạm pháp luật là những QHXH bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Bất kỳ một hành vi trái pháp luật nào cũng làm tổn hại, gây rối loạn và đe dọa sự phát triển bình thường của các QHXH ấy. Do đó vi phạm hành chính cũng xâm phạm vào các QHXH được pháp luật hành chính bảo vệ.
Như vậy, khách thể của vi phạm hành chính là các quy tắc QLNN trong lĩnh vực QLNN khác nhau. Chẳng hạn như: các quy tắc về an toàn giao thông, quy tắc về ANTT-ATXH...
*/ Mặt khách quan của vi phạm hành chính:
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là những biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm hành chính mà chúng ta có thể nhận thức, tri giác được.
Mặt khách quan của VPHC bao gồm: hành vi vi phạm hành chính và một số dấu hiệu khách quan khác như: hậu quả và mối quan hệ nhân quả, công cụ phương tiện, thời gian địa điểm thực hiện vi phạm hành chính.
- Hành vi vi phạm hành chính.
Như chúng ta đã dược nghiên vi phạm hành chính trước hết cũng phải là hành vi xác định của con người. Vậy, chúng ta hiểu thế nào là hành vi vi phạm hành chính?
Hành vi vi phạm hành chính được hiểu là những biểu hiện của con người hoặc tổ chức tác động vào thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể, gây tác hại đến sự tồn tại và phát triển bình thường của trật tự quản lý hành chính nhà nước.
Hành vi vi phạm hành chính được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động.
+ Hành động vi phạm hành chính: là chủ thể vi phạm hành chính thực hiện những điều mà pháp luật hành chính ngăn cấm, không cho phép thực hiện.
Ví dụ: hành vi làm hàng giả, xây dựng trái phép, đi xe máy vào đường cấm…
+ Không hành động vi phạm hành chính: là chủ thể vi phạm hành chính không thực hiện theo những điều mà pháp luật hành chính bắt buộc phải thực hiện.
Ví dụ: không thực hiện các quy định về đăng ký tạm trú, tạm vắng, không trang bị phương tiện phòng cháy chữa cháy theo quy định…
Dấu hiệu hành vi vi phạm hành chính là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của mọi vi phạm hành chính. Tuy nhiên ngoài hành vi vi phạm hành chính mặt khách quan của vi phạm hành chính còn được thể hiện ở một số dấu hiệu khách quan khác.
- Hậu quả và mối quan hệ nhân quả:
+ Hậu quả của vi phạm hành chính là những thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hành chính bảo vệ bằng cách làm thay đổi trạng thái ban đầu của đối tượng tác động.
Thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra rất phức tạp. Thiệt hại được coi là hậu quả của vi phạm hành chính thường được thể hiện dưới các dạng: thiệt hại về thể chất, thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
Ø Thiệt hại về thể chất: Thiệt hại về thể chất là thiệt hại cho sức khỏe của con người.
Ø Thiệt hại về vật chất: Thiệt hại về vật chất là thiệt hại được gây nên cho những đối tượng tác động là vật chất.
Ø Thiệt hại về tinh thần: Thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại gây ra cho danh dự, nhân phẩm, của con người. Thiệt hại về tinh thần còn là những thiệt hại cho các giá trị văn hoá được nhà nước ta ghi nhận và bảo vệ, đi ngược lại thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
- Khi vi phạm hành chính đã gây ra hậu quả thì cần xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả của hành vi. Xác định vấn đề này để đảm bảo người vi phạm chỉ phải chịu trách nhiệm về những hậu quả, thiệt hại do chính hành vi của mình gây ra.
Để xác định mối quan hệ này phải căn cứ vào các vấn đề sau:
> Hành vi trái pháp luật phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian.
> Hành vi trái pháp luật phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả.
> Hậu quả xảy ra phải chính là sự hiện thực hoá khả năng đó.
Vậy, theo các đ/c hậu quả có phải là dấu hiệu bắt buộc hay không?
- Một số dấu hiệu khách quan khác:
Một số dấu hiệu khách quan khác thông thường là thời gian, địa điểm thực hiện vi phạm hành chính, công cụ phương tiện vi phạm.
+ Thời gian, địa điểm thực hiện vi phạm:
Ví dụ:
-> Cá nhân, tổ chức gây tiếng động lớn làm ồn ào, huyên náo chỉ bị xem là vi phạm hành chính nếu được thực hiện trong khoảng thời gian từ 22 giờ đến 5 giờ sáng.
-> Người có hành vi say rượu chỉ bị xem là vi phạm hành chính khi thực hiện hành vi say rượu ở nơi công sở, nơi làm việc, trong các khách sạn, nhà hàng, quán ăn và những nơi công cộng.
+ Công cụ phương tiện thực hiện vi phạm
Ví dụ:
-> Hành vi sử dụng kích điện xách tay để khai thác thủy sản.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Nghị định 70/2003/NĐ-CP ngày 17/06/2003 quy định xử phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực thủy sản hành vi sử dụng kích điện xách tay để khai thác thủy sản sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đến 300.000 đồng.
Như vậy, trong trường hợp này, dấu hiệu công cụ, phương tiện là dấu hiệu bắt buộc trong MKQ của vi phạm hành chính.
Tóm lại, dấu hiệu mặt khách quan của vi phạm hành chính bao gồm các yếu tố: hành vi vi phạm hành chính, hậu quả và mối quan hệ nhân quả và thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện.
*/ Mặt chủ quan của vi phạm hành chính.
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính là diễn biến bên trong phản ánh trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra.
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính bao gồm yếu tố lỗi, động cơ, mục đích… Tuy nhiên, trong thực tế mặt chủ quan của vi phạm hành chính chủ yếu thể hiện ở yếu tố lỗi của người vi phạm. Và lỗi là dấu hiệu pháp lý bắt buộc của mọi vi phạm hành chính.
- Lỗi
Lỗi là trạng thái tâm lý của người vi phạm, biểu hiện thái độ của người đó đối với hành vi vi phạm pháp luật của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra.
Lỗi gồm có lỗi cố ý và lỗi vô ý.
+ Lỗi cố ý: là trường hợp mà người vi phạm khi thực hiện hành vi trái pháp luật hành chính nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi do mình thực hiện, thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi vô ý: Là trường hợp mà người thực hiện hành vi vi phạm đã không nhận thức được hậu quả và tính chất nguy hiểm của hành vi mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Hoặc người vi phạm tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được
- Mục đích:
Mục đích là cái đích mà người vi phạm hướng tới khi thực hiện vi phạm hành chính.
Ngoài lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của mọi vi phạm hành chính, ở một số trường hợp cụ thể, pháp luật còn xác định dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc của một số loại vi phạm hành chính.
Ví dụ: hành vi trốn trên các phương tiện xuất cảnh, nhập cảnh được coi là hành vi vi phạm các quy định về xuất nhập cảnh, quá cảnh khi nhằm mục đích vào Việt nam hoặc ra nước ngoài (điểm b khoản 3 Điều 22-Nghị định 150/2005/NĐ-CP).
- Động cơ:
Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy con người thực hiện vi phạm hành chính.
*/ Chủ thể của VPHC (Điều 6 – PL)
Chủ thể của vi phạm hành chính là cá nhân hoặc tổ chức có đủ năng lực trách nhiệm hành chính.
Năng lực trách nhiệm hành chính là khả năng của cá nhân, tổ chức để gánh chịu TNHC khi thực hiện hành vi VPHC. Năng lực TNHC gồm có năng lực pháp luật hành chính và năng lực hành vi hành chính.
- Đối với cá nhân: Cá nhân có đủ năng lực TNHC khi cá nhân đó phải là người không mắc các bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và đạt độ tuổi chịu TNHC do pháp luật quy định. Cụ thể là:
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính với lỗi cố ý.
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính trong mọi trường hợp.
- Đối với tổ chức: Năng lực trách nhiệm hành chính của tổ chức xuất hiện khi nó được thành lập theo đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, tổ chức là chủ thể của vi phạm hành chính bao gồm các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang…
Câu hỏi tự nghiên cứu:
Trong trường hợp nào thì cá nhân, tổ chức nước ngoài là chủ thể của VPHC theo quy định của pháp luật nước ta?

2. Xử lý vi phạm hành chính
a. Nhận thức chung về xử lý vi phạm hành chính
a.1. Khái niệm, nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính.
*. Khái niệm xử lý VPHC
Xử lý vi phạm hành chính là biện pháp cưỡng chế hành chính do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính.
Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác. Xử phạt vi phạm hành chính gồm các hình thức xử phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, các hình thức xử phạt bổ sung là tước quyền sử dụng GP, CCHN, tịch thu TV, PT được sử dụng để VPHC. Còn các biện pháp xử lý hành chính khác gồm có: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh.
Xử lý vi phạm hành chính có những đặc điểm sau đây:
+ Xử lý vi phạm hành chính là một hoại hoạt động cưỡng chế mang tính quyền lực nhà nước.
Tính quyền lực nhà nước được thể hiện trên 2 nội dung sau đây:
· Xử lý vi phạm hành chính được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Xử lý vi phạm hành chính phải do những cơ quan và người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành. Cụ thể thẩm quyền xử lý VPHC được quy định tại các Điều 28 - 40-PL. Ngoài ra trong các Nghị định của CP về xử lý VPHC cũng đã cụ thể hóa thẩm quyền của các chức danh này.
· Quyết định xử phạt vi phạm hành chính có tính bắt buộc thi hành đối với người vi phạm. Nếu cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc cá nhân bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác không tự nguyện thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính hoặc quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác thì bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế bắt buộc phải thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính như: kê biên tài sản có giá trị tương ứng để bán đấu giá, khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản ngân hàng hoặc bị cưỡng chế thi hành quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác.
Và nhờ vào đặc điểm này, việc xử lý VPHC có tác dụng điều chỉnh hành vi xử sự của cá nhân, tổ chức vi phạm.
+ Mục đích của xử lý vi phạm hành chính là để truy cứu TNHC của cá nhân, tổ chức vi phạm.
Cơ sở của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật, vì vậy việc xử lý vi phạm hành chính chỉ được tiến hành đối với cá nhân, tổ chức khi hành vi do cá nhân tổ chức đó có đủ yếu tố cấu thành một vi phạm hành chính cụ thể.
Đặc điểm này đòi hỏi khi xử lý vi phạm hành chính phải có căn cứ pháp lý rõ ràng, tránh trường hợp áp dụng nguyên tắc suy đoán hoặc áp dụng nguyên tắc tương tự luật trong xử lý VPHC.
Cụ thể theo quy định tại Khoản 2 – Điều 3 – PL đã quy định:
“Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt VPHC khi có vi phạm hành chính do pháp luật quy định
Cá nhân chỉ bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác nếu thuộc một trong các đối tượng được quy định tại các Điều 23, 24, 25 và 26 Pháp lệnh này”.
Như vậy, pháp lệnh xử lý VPHC và các Nghị định của Chính phủ quy định về hành vi vi phạm hành chính, các hình thức, mức xử phạt là căn cứ pháp lý quan trọng để cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành xử lý vi phạm hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm.
+ Xử lý vi phạm hành chính được tiến hành theo những nguyên tắc, trình tự, thủ tục được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Về nguyên tắc xử phạt VPHC chúng ta sẽ được nghiên cứu ở sau.
Còn thủ tục xử phạt VPHC là trình tự thực hiện các hành động, cũng như các loại giấy tờ, các phương pháp thực hiện các hành động đó trong việc xử lý VPHC.
Các thủ tục này do pháp luật quy định, chính vì vậy nó có tính bắt buộc thi hành đối với cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt và cá nhân, tổ chức vi phạm. Việc thực hiện đúng các thủ tục xử lý VPHC sẽ đảm bảo việc xử lý VPHC được tiến hành một cách chính xác, khách quan và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức vi phạm. Đồng thời các thủ tục này sẽ hạn chế được những tiêu cực có thể xảy ra trong xử lý vi phạm hành chính.
Về thủ tục xử phạt VPHC được quy định tại chương VI – Thủ tục xử lý vi phạm hành chính – PL 2002. Còn thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác được quy định tại chương VII - PL
+ Kết quả của hoạt động này được thể hiện ở các quyết định xử lý vi phạm hành chính.
Cụ thể trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính ghi nhận các hình thức, biện pháp xử phạt áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính. Còn quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác ghi nhận biện pháp xử lý hành chính khác và thời hạn áp dụng biện pháp đó đối với cá nhân vi phạm.
Việc quyết định áp dụng biện pháp xử phạt đó thể hiện thái độ nghiêm khắc của nhà nước đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, qua đó giáo dục cho người vi phạm và mọi cá nhân, tổ chức khác ý thức tuân thủ pháp luật.
Ngoài ra quyết định xử lý vi phạm hành chính còn có ý nghĩa rất quan trọng, đó chính là căn cứ pháp lý để xác định vi phạm hành chính đã xảy ra, là cơ sở để xác định tái vi phạm của cá nhân, tổ chức để áp dụng tình tiết tăng nặng hoặc truy cứu TNHS đối với cá nhân vi phạm.
*. Các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính
Những nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính là những quan điểm lập pháp chủ đạo, có tính chất nền tảng, làm cơ sở cho việc quy định và xử lý vi phạm hành chính bảo đảm đúng định hướng là mọi vi phạm hành chính phải được xử lý kịp thời, kiên quyết, triệt để, nghiêm minh, đúng pháp luật nhằm bảo vệ trật tự quản lý nhà nước.
Xuất phát từ nguyên tắc hiến định được quy định tại Điều 12 Hiến pháp năm 1992: ‘Mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật” Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đã quy định việc xử lý vi phạm hành chính phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
- Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay; việc xử lý vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để; mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng pháp luật.
- Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định.
Cá nhân chỉ bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính nếu thuộc một trong các đối tượng được quy định tại các Điều từ điều 23 đến Điều 26 của pháp lệnh này.
- Việc xử lý vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền tiến hành theo đúng quy định của pháp luật.
- Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần; Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt; Một người thực hiện nhiều vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm;
- Việc xử lý vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, nhân thân của người vi phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình thức, biện pháp xử lý thích hợp.
- Không xử lý vi phạm hành chính trong các trường hợp thuộc tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ và không có năng lực trách nhiệm hành chính.
Việc tuân thủ và thực hiện tốt các nguyện tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo pháp chế XHCN, đảm bảo trật tự QLHCNN, đảm bảo tính giáo dục kịp thời đối với mọi cá nhân, tổ chức và đề cao trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền trong việc phát hiện và xử lý vi phạm hành chính.
Nội dung cụ thể của các nguyên tắc này như sau:
1. Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay; việc xử lý vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để; mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng pháp luật.
Đây là nguyên tắc nền tảng của xử lý vi phạm hành chính, việc tuân thủ và thực hiện tốt nguyên tắc này có ý nghĩa quyết định đối với hiệu qua công tác đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính trong giai đoạn hiện nay.
- Nội dung của nguyên tắc.
+ Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay.
· Nội dung này đòi hỏi các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền phải nâng cao trách nhiệm của mình trong công tác quản lý, phải thường xuyên có các biện pháp kiểm tra nhằm phát hiện kịp thời các vi phạm hành chính. Tránh trường hợp khi phát hiện ra VPHC thì đã hết thời hiệu xử lý.
· Khi phát hiện ra vi phạm hành chính, thì nguyên tắc này đòi hỏi người có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để đình chỉ ngay hành vi vi phạm.
Tóm lại, mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay. Để đảm bảo thực hiện tốt nội dung này, pháp lệnh đã có những quy định về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, thời hiệu áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác, trách nhiệm của người có thẩm quyền nếu có lỗi trong việc để quá thời hiệu. Ngoài ra pháp lệnh còn quy định các biện pháp cưỡng chế hành chính mà người có thẩm quyền có thể áp dụng để phát hiện và đình chỉ hành vi vi phạm như: tạm giữ người, tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm …
+ Việc xử phạt vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để.
Nội dung này đòi hỏi những vấn đề sau:
· Việc xử lý vi phạm hành chính phải nhanh chóng đòi hỏi người có thẩm quyền không được kéo dài thời gian giải quyết vụ vi phạm gây phiền hà, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Cụ thể là khi xác định hành vi vi phạm đã có đủ các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính thì trong thời hạn do pháp luật quy định, cơ quan, người có thẩm quyền phải ra quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính hoặc các biện pháp cưỡng chế hành chính khác.
· Công minh có nghĩa là phải xử lý đúng người, đúng hành vi vi phạm, không phân biệt người có chức vụ quyền hạn hay không có chức vụ, quyền hạn. Khi quyết định áp dụng các hình thức, mức xử phạt vi phạm hành chính, cơ quan, người có thẩm quyền phải tính toán đầy đủ mọi tình tiết có liên quan đến hành vi vi phạm, mức độ hậu quả thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra, hình thức lỗi, nhân thân của người vi phạm… để quyết định áp dụng các hình thức, mức xử phạt tương xứng với hành vi vi phạm.
· Triệt để có nghĩa là phải xử phạt hết các hành vi vi phạm, không vì thiên vị, tư lợi mà bỏ sót vi phạm. Ngoài ra để việc xử phạt VPHC được tiến hành triệt để còn đòi hỏi cá nhân, tổ chức vi phạm phải chấp hành một cách đầy đủ, nghiêm túc các quyết định xử phạt VPHC.
Tóm lại, việc xử phạt vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để. Nội dung này nếu không được đảm bảo sẽ làm phát sinh tiêu cực trong quá trình xử lý vi phạm hành chính, làm mất niềm tin của dân vào pháp luật, tạo ra tâm lý coi thường pháp luật ở một bộ phân người dân. Chính vì vậy, để đảm bảo thực hiện tốt nội dung này Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002 đ cĩ những quy định về thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính và trách nhiệm của người có thẩm quyền nếu có lỗi trong việc để quá thời hạn này. Ngoài ra các quy định về thẩm quyền, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp cưỡng chế để thi hành quyết định xử phạt VPHC… được quy định tại Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 cũng là những nội dung để đảm bảo việc xử lý vi phạm hành chính phải đươc tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để…
+ Mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.
Nội dung này đòi hỏi khi vi phạm hành chính đã gây ra những hậu quả, thiệt hại cụ thể cho xã hội thì cơ quan, người có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính cần thiết để buộc cá nhân, tổ chức vi phạm phải khắc phục những hậu quả do vi phạm hành chính của mình gây ra.
Các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra gồm: buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép; buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện; buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng, văn hóa phẩm độc hại và các biện pháp khác do pháp luật quy định.
Như vậy, khi xử phạt vi phạm hành chính các cơ quan và người có thẩm quyền phải quán triệt nguyên tắc mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay; việc xử lý vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để và mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.

2 Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định.Cá nhân chỉ bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác nếu thuộc một trong các đối tượng được quy định tại các điều từ Điều 23 – Điều 26 của pháp lệnh này.
Vấn đề này đã được quy định chi tiết tại khoản 1 – Điều 3 – Nghị định 134/2003/NĐ-CP như sau:
Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính được quy định cụ thể trong các văn bản luật của Quốc hội, pháp lệnh của ủy ban Thường vụ Quốc hội và nghị định của Chính phủ. Các văn bản do Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân ban hành để chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền không được quy định hành vi vi phạm hành chính và hình thức, mức xử phạt

3 Việc xử lý VPHC phải do người có thẩm quyền tiến hành theo đúng quy định của pháp luật.
- Việc xử phạt vi phạm hành chính phải do các chức danh có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành.
Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính được hiểu là khả năng mà pháp luật cho phép các chức danh có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính được áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính hoặc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác đối với cá nhân vi phạm hành chính.
Thẩm quyền này được quy định cụ thể tại các điều từ Đ. 28 – Đ. 40 - PL
- Việc xử phạt vi phạm hành chính phải được tiến hành tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về thủ tục, trình tự xử phạt.
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính là trình tự thực hiện các hành động, và phương pháp thực hiện các hành động đó trong xử lý vi phạm hành chính.
Việc xử phạt vi phạm hành chính phải được tiến hành tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về thủ tục, trình tự xử phạt là nhằm đảm bảo cho việc xử phạt được tiến hành một cách chính xác, khách quan. Tránh các trường hợp người có thẩm quyền xâm phạm vào quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, hạn chế những tiêu cực trong việc xử phạt.

4. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần, một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt.
- Thứ nhất, một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần.
Theo quy định tại Điều 3 – Nghị định 134/2003/NĐ-CP thì quy định một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần được hiểu như sau:
+ Một là: Một hành vi vi phạm đã được người có thẩm quyen xử phạt ra quyết định xử phạt hoặc đã lập biên bản để xử phạt thì không được lập biên bản, ra quyết định xử phạt lần thứ hai đối với chính hành vi đó nữa. Trong trường hợp hành vi vi phạm vẫn tiếp tục được thực hiện mặc dù đã bị người có thẩm quyền xử phạt ra lệnh đình chỉ thì bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 8 Điều 9 của Pháp lệnh”
+ Hai là: Một hành vi vi phạm hành chính đã được người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt thì không đồng thời áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác quy định tại Điều 22 của Pháp lệnh đối với hành vi đó (Điểm b, Khoản 2 – Điều 3 Nghị định 134/2003/NĐ-CP).
Các biện pháp xử lý hành chính khác được quy định tại Đ22 bao gồm 4 biện pháp sau đây: giáo dục tại xã, phương, thị trấn; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở chữa bệnh.
+ Ba là: Trong quá trình xem xét một vi phạm để quyết định xử phạt hoặc xem xét hồ sơ đối tượng để quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác mà cơ quan thụ lý phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì không được tiếp tục xử lý hành chính, mà phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan tố tụng có thẩm quyền để xem xét TNHS (khoản 2 – Điều 62, khoản 2 – Điều 111)
Trong trường hợp nếu một VPHC đã được người có thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt VPHC hoặc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác, nhưng sau đó mới phát hiện hành vi đó có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS thì người đã ban hành quyết định xử phạt hành chính hoặc quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác phải thu hồi và hủy bỏ quyết định này, sau đó chuyển ngay hồ sơ vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền để xem xét TNHS đối với hành vi vi phạm. (Theo Điểm b, khoản 2 – Điều 3 Nghị định 134/2002/NĐ-CP).
- Thứ hai, nhiều người cùng thực hiện một hành vi VPHC thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm đó.
Trong trường hợp này TNHC được cá thể hoá theo từng chủ thể của VPHC. Điều đó không có nghĩa là nhiều người cùng thực hiện một hành vi VPHC thì mỗi người đều bị xử phạt như nhau mà việc quyết định hình thức và mức xử phạt cụ thể của từng người cần được tính toán trên cơ sở tính chất, mức độ vi phạm, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHC đối với từng người có hành vi vi phạm.
- Thứ ba, một người thực hiện nhiều hành vi VPHC thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm.
Trong trường hợp này, TNHC được cá thể hoá theo từng hành vi vi phạm, theo đó người có thẩm quyền xử phạt phải xác định hình thức và mức phạt phù hợp với từng hành vi vi phạm và tổng hợp lại thành mức phạt chung.
Đây là điều khác biệt so với pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1989 vì theo quy định tại Khoản 2 – Điều 6 – PL 89 thì “Một người thực hiện nhieu vi phạm hành chính thì bị xử phạt ve từng vi phạm, nhưng tổng hợp hình thức phạt chung không được vượt quá mức cao nhất của mức xử phạt được pháp luật quy định áp dụng đối với vi phạm nặng nhất”.
Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu đấu trang phòng chống vi phạm hành chính trong giai đoạn hiện nay pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đã cho phép tổng hợp hình thức phạt chung mà không giới hạn mức tối đa.
Cụ thể việc tổng hợp hình thức phạt chung được quy định tại khoản 2 – điều 56 pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002 như sau:” khi quyết định xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính, thì người có thẩm quyền chỉ ra một quyết định xử phạt trong đó quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm; nếu các hình thức xử phạt là phạt tiền thì cọng lại thành mức phạt chung”

5. Việc xử lý VPHC phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình thức, biện pháp xử phạt thích hợp.
Các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ là những tình tiết làm cho một hành vi vi phạm hành chính hoặc người vi phạm hành chính giảm bớt hoặc tăng thêm mức độ nguy hiểm cho xã hội để từ đó cần áp dụng hình thức, mức xử lý nhẹ hơn hoặc nặng hơn trong khung hình thức, mức xử lý được pháp luật quy định.
Các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 8 pháp lệnh, bao gồm các tình tiết như sau:
Điều 8. Tình tiết giảm nhẹ
1. Những tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ:
a) Người vi phạm hành chính đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại;
b) Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi;
c) Vi phạm trong tình trạng bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra;
d) Vi phạm do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần;
đ) Người vi phạm là phụ nữ có thai, người già yếu, người có bệnh hoặc tàn tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
e) Vi phạm vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây ra;
g) Vi phạm do trình độ lạc hậu.
2. Ngoài những tình tiết quy định tại khoản 1 điều này, Chính phủ có thể quy định những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trong các văn bản quy định về xử phạt vi phạm hành chính.
Trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ thì người có thẩm quyền sẽ ra quyết định áp dụng hình thức, mức xử phạt nhẹ hơn so với trường hợp bình thường để thể hiện tính khoan hồng và nhân đạo của pháp luật. Cụ thể nếu VPHC có quy định hình thức xử phạt cảnh cáo và phạt tiền thì có thể xem xét áp dụng hình thức cảnh cáo, nếu VPHC quy định hình thức phạt tiền thì mức tiền phạt áp dụng cho họ nhẹ hơn so với trường hợp bình thường. Tuy nhiên mức tiền phạt không được thấp hơn mức tối thiểu của khung tiền phạt.
Tình tiết tăng nặng (Điều 9-Pháp lệnh):
Chỉ những tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng:
1. Vi phạm có tổ chức;
2. Vi phạm nhiều lần trong cùng lĩnh vực hoặc tái phạm trong cùng lĩnh vực;
3. Xúi giục, lôi kéo người chưa thành niên vi phạm, ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần vi phạm;
4. Vi phạm trong tình trạng say do dùng rượu, bia hoặc các chất kích thích khác;
5. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm;
6. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, hoàn cảnh thiên tai hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để vi phạm;
7. Vi phạm trong thời gian đang chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính;
8. Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó;
9. Sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm hành chính.

Những tình tiết tăng nặng tại các khoản 1 và 2 Đieu 9 của Pháp lệnh được quy định cụ thể như sau :
1. Vi phạm có tổ chức là trường hợp có hai người trở lên câu kết chặt chẽ với nhau, cố ý cùng thực hiện hành vi vi phạm hành chính;
2. Vi phạm nhiều lần trong cùng lĩnh vực là trường hợp thực hiện vi phạm hành chính trong lĩnh vực mà trước đó đã vi phạm nhưng chưa bị xử phạt và chưa hết thời hiệu xử phạt;
3. Tái phạm trong cùng lĩnh vực là trường hợp đã bị xử phạt nhưng chưa hết thời hạn một năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành của quyết định xử phạt mà lại thực hiện vi phạm hành chính trong lĩnh vực đã bị xử phạt;
“Lĩnh vực” quy định tại khoản này được hiểu là các lĩnh vực quản lý nhà nước được quy định tại từng nghị định của Chính phủ ve xử phạt vi phạm hành chính.
Trong trường hợp có các tình tiết tăng nặng, thì người có thẩm quyền áp dụng hình thức, mức xử phạt cao hơn trường hợp bình thường để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Nếu hình thức xử phạt là phạt tiền thì có thể quyết định áp dụng mức tiền phạt cao hơn mức trung bình chung của khung tiền phạt nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt.

6. Không xử lý vi phạm hành chính trong các trường hợp thuộc: tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ, không có năng lực trách nhiệm hành chính.
Theo hướng dẫn tại Nghị định 134/2003/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thì:
1. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Như vậy, tình thế cấp thiết phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Có sự nguy hiểm đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức hoặc lợi ích chính đáng của công dân.
- Hành động khắc phục sự nguy hiểm bằng cách gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp khác là biện pháp cuối cùng và không còn biện pháp nào khác.
- Thiệt hại gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Ví dụ:
Một người đang điều khiển xe ô tô thì xe ô tô bị hỏng phanh và tài xế xe ô tô đã cho xe đi vào đường cấm đang vắng người.
2. Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm hại các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng phải có các điều kiện sau đây:
- Có hành vi xâm phạm vào lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Hành vi đó phải đang xảy ra, đang diễn ra trong thực tế.
- Thiệt hại gây ra phải cho chính người có hành vi xâm hại.
- Hành vi phòng vệ đối với hành vi xâm hại là cần thiết
Ví dụ:
Vào ngày 25/7/2004, tại Cty TNHH Kỳ Đồng – KCN Đồng An – Bình Dương đã xảy ra vụ đình công. Trong đó có một số công nhân quá khích đã có hành vi đập phá tài sản Cty, tấn công bảo vệ. Để bảo vệ tài sản của Cty, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ của mình bảo vệ công ty đã gây thương tích cho những công nhân này.
Trong trường hợp này, chúng ta thấy hành vi gây thương tích cho một số công nhân là nhằm chống trả lại hành vi trái pháp luật của những công nhân này và sự chống trả trong hoàn cảnh đó là cần thiết nên đây là phòng vệ chính đáng. Vì vậy, bảo vệ Cty Kỳ Đồng không phải chịu TNHC.
3. Người thực hiện hành vi do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đo.
Ví dụ:
Một người điều khiển xe mô tô đi đúng tốc độ, đúng phần đường nhưng đột nhiên có một người đi xe đạp từ trong hẻm nhỏ lao ra, do không thắng kịp nên đã gây tai nạn cho người này.
4. Không xử phạt vi phạm hành chính đối với người không có năng lực TNHC.
- Trường hợp người thực hiện vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
- Ngoài ra, hành vi do người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hành chính thực hiện thì cũng không xử phạt vi phạm hành chính đối với những hành vi do họ gây ra.
Độ tuổi phải chịu TNHC được quy định tại Điều 6 –Pháp lệnh xử lý VPHC 2002: người dưới 14 tuổi không bị xử phạt VPHC, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt đối với những VPHC do cố ý.

b. Các hình thức chế tài xử lý vi phạm hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác.
b.1. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
- Hình thức xử phạt chính
+ Cảnh cáo:
· Phạt cảnh cáo được áp dụng đối với các vi phạm sau:
Ø Vi phạm hành chính nhỏ, do sơ suất, vi phạm lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ.
Ø Mọi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi.
+ Phạt tiền:
· Phạt tiền là sự tác động đến vật chất của người vi phạm, gây cho họ hậu quả bất lợi về tài sản. Mức tiền phạt thể hiện mức cưỡng chế của Nhà nước đối với người vi phạm.
· Mức tiền phạt theo quy định tại PLXLVPHC năm 2002 từ 5000 đồng đến 500.000.000 đồng.
· Cách tính mức phạt tiền đối với một hành vi vi phạm cụ thể:
Ø Nếu một hành vi vi phạm hành chính không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì mức phạt tiền sẽ là mức trung bình của khung tiền phạt. Mức trung bình của khung tiền phạt là trung bình cộng giữa mức tối thiểu và mức tối đa của khung tiền phạt đối với từng hành vi vi phạm.
Ø Đối với vi phạm hành chính có tình tiết giảm nhẹ, mức tiền phạt có thể thấp hơn mức trung bình của khung tiền phạt nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu của khung tiền phạt được quy định trong văn bản quy định về xử phạt hành chính.
Ø Đối với vi phạm hành chính có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể cao hơn mức trung bình của khung tiền phạt nhưng không được cao hơn mức tối đa của khung tiền phạt được quy định trong văn bản pháp luật hành chính.
· Việc áp dụng hình thức phạt tiền đối với người chưa thành niên được quy định như sau:
Ø Người từ đủ 14 – dưới 16 chỉ bị phạt cảnh cáo, không bị phạt tiền.
Ø Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt được quy định tại Điều 12 PL. khi phạt tiền đối với họ thì mức tiền phạt không được quá ½ của người thành niên, trong trường hợp họ không có tiền nộp phạt thì cha, mẹ hoặc người giám hộ của họ phải nộp phạt thay.
- Các hình thức xử phạt bổ sung:
+ Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
· Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề của tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính có thời hạn hoặc không có thời hạn khi tổ chức, cá nhân đó đã vi phạm nghiêm trọng những quy định trong việc sử dụng những loại giấy phép, chứng chỉ hành nghề đó.
· Hình thức xử phạt này được áp dụng khi có đủ 2 điều kiện sau đây:
Ø Văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính quy định có thể áp dụng biện pháp xử phạt này đối với vi phạm hành chính cụ thể nào đó.
Ø Cá nhân, tổ chức đã có hành vi trực tiếp quy tắc sử dụng giấy phép.
· Chú ý:
Ø Giấy phép sử dụng vì mục đích an ninh, quốc phòng khi có VPHC mà theo quy định của PL phải tước quyền sử dụng thì người ra quyết định xử phạt không ra quyết định tước quyền sử dụng mà phải chuyển về cơ quan chủ quản để xử lý theo điều lệnh kỷ luật.
Ø Khi phát hiện giấy phép, chứng chỉ hành nghề được cấp không đúng thẩm quyền hoặc có nội dung trái pháp luật thì người có thẩm quyền xử phạt phải tiến hành thu hồi ngay, đồng thời báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền biết.
Ø Trong thời hạn bị tước quyền sử dụng GP, CCHN tổ chứ, cá nhân vi phạm không được tiến hành các hoạt động gh trong GP, CCHN.
+ Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính
· Tịch thu tang vật. phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt quyết định biện pháp tịch thu để sung vào công quỹ nhà nước các tài sản, vật dụng, hàng hoá, tiền bạc … dùng để vi phạm hành chính hoặc do vi phạm hành chính mà có.
· Khi áp dụng hình thức xử phạt này cần chú ý:
Ø Đối với vật, phương tiện, tiền bạc bị sử dụng để vi phạm hành chính thuộc các hình thức sỡ hữu hợp pháp bị cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép thì không áp dụng hình thức phạt tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lí, người sử dụng hợp pháp.
Ø Thẩm quyền,thủ tục tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính được pháp luật quy định cụ thể.
Ø Tước quyền sử dụng GP, CCHN, tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là những hình thức xử phạt bổ sung, vì vậy chúng chỉ được áp dụng kèm theo các hình thức xử phạt chính. Trong trường hợp này, có thể thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt chính và thẩm quyền tước quyền sử dụng GP, CCHN không nhất thiết phải trùng nhau.
- Trục xuất
+ Trục xuất theo thủ tục hành chính là buộc người nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Trục xuất là biện pháp xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng là hình thức xử phạt chính hoặc hình thức xử phạt bổ sung. Trục xuất là hình thức phạt chính khi được áp dụng dộc lập hoặc được áp dụng kèm theo hình thức phạt tước quyền sử dụng GP, CCHN hoặc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Hình thức này là hình thức xử phạt bổ sung khi được áp dụng với các hình thức xử phạt chính khác.Hình thức xử phạt trục xuất được quy định tại Điều 15 PLXLVPHC – 2002 và Nghị định số 97/2006/NĐ-CP ngày 15/9/2006.
+ Đối tượng áp dụng: Người nước ngoài có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật Việt nam về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất.
Người nước ngoài là người không mang quốc tịch Việt Nam, bao gồm người mang quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch.
Người mang quốc tịch nước ngoài bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất thì địa chỉ để trục xuất họ là quốc gia họ mang quốc tịch. Đối với người không quốc tịch thì địa chỉ để trục xuất họ là quốc gia họ đang thường trú.
+ Chú ý: Người nước ngoài không quốc tịch thường trú tại Việt Nam không phải là đối tượng áp dụng hình thức xử phạt này bởi vì đối tượng này không có địa chỉ để thực hiện việc trục xuất.

b.2. Các biện pháp xử lí hành chính khác
b.2.1 Khái niệm:
- Các biện pháp xử lý hành chính khác là nhóm biện pháp cưỡng chế hành chính do pháp luật quy định áp dụng đối với cá nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự xã hội (như cờ bạc, ma túy, mại dâm, gây rối trật tự công cộng…) nhưng tính chất, mức độ vi phạm chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Mục đích của việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác là nhằm quản lý, ngăn ngừa không để đối tượng có điều kiện tiếp tục vi phạm pháp luật, đồng thời giáo dục để hướng họ đến cuộc sống lương thiện hoặc phục hồi sức khoẻ cho họ.
Các biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác đều có chung tính chất là hạn chế quyền tự do của người vi phạm thông qua sự giám sát, quản lý chặt chẽ, thường xuyên của của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Phân biệt các biện pháp xử lý hành chính khác với các biện pháp xử phạt hành chính:
+ Về đối tượng: Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính bao gồm cá nhân, tổ chức Việt Nam, cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trên các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính nhà nước.
Trong khi đó, đối tượng của việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác là cá nhân công dân Việt Nam, có hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội chưa đên mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác thông thường là những đối tượng nguy hiểm cho xã hội. Đây là những người thường xuyên vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Phần lớn những đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác đã nhiều lần bị xử phạt hành chính nhưng vẫn tái phạm. Vì vậy, cần phải áp dụng đối với họ những biện pháp xử lý khác với tính chất cưỡng chế nặng hơn nhằm giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật ở họ.
+ Về thẩm quyền quyết định áp dụng: Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác được pháp luật chủ yếu trao cho chủ tịch UBND các cấp. Trong khi đó, theo quy định của pháp luật thì biện pháp xử phạt vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền của nhiều loại chủ thể khác nhau.
+ Về thủ tục quyết định áp dụng: Việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác đối với các đối tượng vi phạm pháp luật ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, tự do của môi cá nhân vì vây, thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác được pháp luật quy định rất chặt chẽ, phải qua nhiều khâu xét duyệt với sự tham gia của rất nhiều cơ quan, cán bộ có thẩm quyền khác nhau khác. Trong khi đó thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đơn giản và được thực hiện nhanh chóng hơn.
Điều này đảm bảo cho các quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác được ban hành chặt chẽ, chính xác, phù hợp với đối tượng bị áp dụng.
b.2.2.2. Các biện pháp xử lý hành chính khác
* Giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Theo hướng dẫn tại Nghị định 163/2003/NĐ-CP và thông tư 22/2004/TT-BCA thì đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã phải là công dân VN có nơi cư trú nhất định, từ đủ 12 tuổi trở lên, thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, bao gồm:
+ Người từ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự.
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù.
+ Người từ đủ 12 tuổi trở lên nhiều lần có hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, gây rối trật tự công cộng.
Cụm từ “nhiều lần” ở đây được hiểu là có từ 2 lần vi phạm pháp luật trở lên trong thời hạn 12 tháng. Thời hạn để tính số lần vi phạm căn cứ vào Điều 11 của PLXLVPHC.
Trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, gây rối trật tự công cộng phải được hiểu là họ thực hiện hành vi đó, nhưng chưa đến mức truy cứu TNHS.
+ Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 14 tuổi trở lên.
Cụm từ “Có tính chất thường xuyên” được hiểu là có từ 2 lần vi phạm pháp luật trở lên trong thời hạn 12 tháng.
+ Người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có từ 2 lần vi phạm trở lên trong thời hạn 12 tháng:
· Xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài.
· Xâm phạm tài sản của tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài.
· Tổ chức, môi giới mại dâm;
· Chống người th hành công vụ;
· Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo,kích động người khác xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
· Tổ chức cưỡng ép, dụ dỗ, lôi kéo người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép.
· Các hành vi khác vi phạm về trật tự an toàn, xã hội.
+ Người thực hiện hành vi theo quy định của pháp luật bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục nhưng đã trên 55 tuổi đối với nữ và trên 60 tuổi đối với nam.
+ Chú ý: các đối tượng nêu trên phải có nơi cứ trú nhất dịnh, nghĩa là họ phải là người có hộ khẩu thường trú hoặc đăng ký có thời hạn và thường xuyên làm ăn, sinh sống tại nơi đó.
- Thẩm quyền: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn do Chủ tịch UBND cấp xã quyết định.
- Thời hạn: 3 đến 6 tháng. Thời hạn này được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục người được giáo dục tổ chức cuộc họp theo quy định tại Điều 13 Nghị định 163 để thi hành quyết định giáo dục tại cấp xã.
- Trình tự thủ tục áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã, được quy định từ Điều 70 đến Điều 74 – Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 và Nghị định 163/2003/NĐ-CP ngày 19 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Chế độ đối với người bị áp dụng, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức được phân công quản lý, giáo dục, giúp đỡ người bị áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã được quy định tại Nghị định 163/2003/NĐ-CP.
* Đưa vào trường giáo dưỡng.
- Đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng được quy định tại khoản 2- Điều 2 – Nghị định 142/2003/NĐ-CP gồm các đối tượng sau:
+ Người từ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ luật hình sự.
Gồm 2 điều kiện:
· Phải là người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi.
· Thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định tại BLHS.
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
+ Người từ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng quy định tại BLHS mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định.
Gồm các điều kiện sau:
· Phải là người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi.
· Thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng quy định tại BLHS.
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù.
· Đối với đối tượng có nơi cư trú nhất định thì điều kiện bắt buộc là đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã, còn đối với đối tượng không có nơi cư trú nhất định thì không cần có điều kiện này.
“Không có nơi cư trú nhất định” có nghĩa là không xác định được nơi đăng ký HKTT hoặc đăng ký tạm trú và thường xuyên đi làng thang, không có nơi ở cố định. Hoặc có nơi đăng ký HKTT hoặc có nơi đăng ký tạm trú nhưng thường xuyên đi lang thang, không ở một nơi đã đăng ký thường trú hoặc tạm trú.
“Đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã” được hiểu là người có nơi cư trú nhất định đang chấp hành biện pháp giáo dục tại cấp xã lại có hành vi quy định tại khoản 2 Điều 2 NĐ 142 hoặc đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã, nhưng chưa hết thời hạn để được xem là chưa bị xử lý hành chính (theo quy định tại khoản 2- Điều 11 – PLXLVPHC thì thời hạn này là 2 năm).
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định.
Gồm các điều kiện sau đây:
· Phải là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
· Thực hiện các hành vi lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối TTCC 2 lần trở lên trong 12 tháng, chưa đến mức truy cứu TNHS.
· Đối với đối tượng có nơi cư trú nhất định thì điều kiện bắt buộc là đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã, còn đối với đối tượng không có nơi cư trú nhất định thì không cần có điều kiện này.
+ Chú ý:
· Trường hợp người chưa thành niên thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh thì cơ quan có thẩm quyền chỉ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh.
· Căn cứ pháp lý để xác định đô tuổi là giấy khai sinh, nếu không có giấy khai sinh thì phải căn cứ vào CMND hoặc sổ hộ khẩu. Thời điểm tính độ tuổi là ngày đối tượng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Nếu vào thời điểm ký quyết định đưa vào trường Giáo dưỡng mà người đó đã đủ 18 tuổi trở lên thì không áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng mà xem xét, lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục nếu thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp này.
- Thời hạn: Từ 6 tháng đến 2 năm.
- Thẩm quyền: chủ tịch UBND cấp Huyện.
- Thủ tục, chế độ áp dụng: được quy định từ Điều 75 - 83 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 và Nghị định 142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ, quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
* Đưa vào cơ sở giáo dục.
- Theo hướng dẫn tại thông tư 02/2004/TT-BCA ngày 02/02/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị định 76/2003/NĐ-CP thì đối tượng gồm những người trong độ tuổi từ 18 đến 55 đối với nữ và đến 60 đối với nam có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có tính chất thường xuyên nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định:
+ Xâm phạm sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, người nước ngoài;
+ Xâm phạm tài sản của tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài;
+ Đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hoặc hiện vật;
+ Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc;
+ Tổ chức, môi giới mại dâm
+ Gây rối trậy tự công cộng, chống người thi hành công vụ;
+ Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;
+ Tổ chức cưỡng ép, lôi kéo, dụ dỗ người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép
+ Các hành vi khác vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội.
- Thẩm quyền: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Thời hạn áp dụng: từ 6 tháng đến 2 năm.
- Thủ tục: được quy định từ Điều 84 đến Điều 92 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Nghị định 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 06 năm 2003
* Đưa vào cơ sở chữa bệnh.
- Đối tượng áp dụng:
+ Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị xử phạt vi phạm hành chính về việc sử dụng trái phép chất ma túy mà vẫn còn nghiện; đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng; đã được giáo dục tại xã, phường thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc người nghiện ma túy không có nơi cư trú nhất định.
Ø Người vẫn còn nghiện ma túy được hiểu là người bị phát hiện tiếp tục sử dụng ma túy thuộc một trong các trường hợp sau: Bị bắt quả tang sử dụng trái phép chất ma túy; Xét nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể có kết quả dương tính.
Ø Người đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đong là người được cai nghiện theo Thông tư số 01/2003/TTLT-BLĐTBXH-BYT-BCA ngày 24/1/2003 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế và Bộ Công an về hướng dẫn thực hiện một số đieu của Nghị định so 56/2002/NĐ-CP ngày 15/5/2002 của Chính phủ quy định ve tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đong.
+ Người bán dâm từ đủ 16 tuổi trở lên đã được giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đã bị đưa vào cơ sở chữa bệnh nhưng tái phạm; người bán dâm có tính chất thường xuyên chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định.
Người bán dâm tái phạm được hiểu là người đang chấp hành hoặc đã chấp hành xong biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đã chấp hành xong biện pháp đưa vào Trung tâm nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính lại tiếp tục có hành vi bán dâm.
+ Chú ý:
· Không đưa vào cơ sở chữa bệnh người nghiện ma túy chưa đủ 18 tuổi; người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên trong thời hạn 2 năm lại tái nghiện kể từ ngày đã chấp hành xong quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh; Người bán dâm chưa đủ 16 tuổi hoặc trên 55 tuổi.
· Bên cạnh đó, pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 cũng có một quy định mở, theo đó đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, nếu sau 3 tháng kể từ khi thực hiện lần cuối hành vi vi phạm mà người vi phạm có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật thì cũng thuộc đối tượng không bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính này.
- Thời hạn: Theo tính chất cần thiết của việc chữa bệnh đối với từng đối tượng nên thời hạn cưỡng chế thi hành biện pháp này quy định như sau:
+ Thời hạn chữa bệnh đối với người nghiện ma túy là từ 1 năm đến 2 năm;
+ Thời hạn chữa bệnh đối với người bán dâm là từ 3 tháng đến 18 tháng.
- Thủ tục: được quy định từ Điều 93 đến Điều 101 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Nghị định 135/2004/NĐ-CP ngày 10 tháng 06 năm 2004, và được hương dẫn chi tiết tại thông tư liên tịch của Bộ LĐ TBXH, Bộ Công an số 22/2004/TTLT-BLĐTBXH-BCA ngày 31/12/2004 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 135/2004/NĐ-CP của Chính phủ.
b.3. Các biện pháp cưỡng chế hành chính khác được áp dụng trong quá trình xử lý vi phạm hành chính.
- Các biện pháp khắc phục hậu quả
+ Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
+ Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra;
+ Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện;
+ Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng, văn hoá phẩm độc hại;
+ Các biện pháp khác do Chính phủ quy định.
- Các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý VPHC.
+ Tạm giữ người theo thủ tục hành chính
· Căn cứ áp dụng:
Ø Cần thu thập, xác minh những tình tiết quan trọng làm căn cứ để quyết định xử lí hành chính.
Ø Cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác.
· Thời hạn áp dụng:
Ø Không quá 12 giờ kể từ thời điểm tạm giữ người vi phạm.
Ø Không được quá 24 giờ trong những trường hợp cần thiết.
Ø Không quá 48 giờ đối với những người vi phạm qui chế biên giới hoặc thực hiện vi phạm hành chính ở vùng rừng núi xa xôi hẻo lánh, hải đảo.
· Thẩm quyền: Điều 45-PL
· Thủ tục:
Ø Theo yêu cầu của người bị tạm giữ, người ra quyết đinh tạm giữ phải thông báo cho người thân trong gia đình, cơ quan, nơi làm việc học tập của họ biết. Khi tạm giữ người chưa thành niên vi hành chính trên 6 giờ hoặc vào ban đêm thì phải thông báo cho cha mẹ hoặc người giám hộ của họ biết.
Ø Nghiêm cấm việc giữ người vi phạm hành chính trong các nhà tạm giữ, phòng tạm giam hình sự hoặc những nơi không đảm bảo vệ sinh, an toàn cho ngưởi bị tạm giữ.
Ø Thủ tục được quy định tại qui chế tạm giữ người theo thủ tục hành chính được ban hành kèm theo NĐ 62/2004/NĐ-CP .
+ Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính (điều 46):
· Căn cứ áp dụng: cần ngăn chặn ngay vi phạm hành chính hoặc để xác minh tình tiết làm căn cứ ra quyết định xử lí.
· Thời hạn: không được quá 15 ngày kể từ khi tạm giữ.
· Thẩm quyền: Khoản 2 – Điều 46
· Thủ tục:
Ø Người ra quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có trách nhiệm bảo quản tang vật, phương tiện đó nếu do lỗi của người này mà tang vật, phương tiện bị mất, bán, đánh tráo, hoặc hư hỏng thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Ø Trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm cần niêm phong thì phải tiến hành ngay trước mắt người vi phạm hoặc đại diện gia đình, đại diện tổ chức, đại diện chính quyền và người chứng kiến.
Ø Đối với tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc, đã quí, kim khí quí, các chất ma tuý và những vật thuộc chế độ quản lí đặc biệt khác thì việc bảo quản được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Ø Đối với tang vật vi phạm hành chính là loại hàng hoá, vật phẩm dễ bị hư hỏng thì người ra quyết định tạm giữ phải xử lí theo khoản 3 điều 61 của Pháp lệnh này (phải tiến hành lập biên bản và tổ chức bán ngay, tiền thu được phải nộp vào ngân sách nhà nước qua tài khoản mở tại kho bạc Nhà nước).
Ø Việc tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có quyết định bằng văn bản và phải trao cho người vi phạm, đai diện tổ chức vi phạm một bản.
+ Khám người theo thủ tục hành chính:
· Căn cứ áp dụng: khi có căn cứ để nhận định người đó cất giấu trong người đồ vật, tài liệu, phương tiện vi phạm hành chính.
· Thẩm quyền: gồm những người được quy định tại điều 45 ngoài ra con qui định thêm: chiến sĩ CSND, cảnh sát viên đội nghiệp vụ cảnh sát biển, chiến sĩ bộ đội biên phòng, nhân viên kiểm lâm, kiểm soát viên thị trường đang thi hành công vụ khi có tình thế khẩn cấp như: nếu không tiến hành khám ngay thì đồ vật, tài liệu, phương tiện vi phạm hành chính có thể bị tẩu tán, tiêu huỷ và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình, đồng thời phải báo cáo ngay thủ trưởng đơn vị.
· Thủ tục:
Ø Trước khi tiến hành khám người, người khám phải thông báo cho người bị khám biết, khi khám nữ khám nữ, nam khám nam và phải có người cùng giới chứng kiến.
Ø Mọi trường hợp khám người đều phải có QĐ bằng văn bản trừ trường hợp phải khám ngay theo khoản 2 điều này, và phải giao cho người bị khám 01 bản.
Ø Mọi trường hợp khám người đều phải lập biên bản và phải giao cho người bị khám 1 bản.
+ Khám phương tiện vận tải, đồ vật theo thủ tục hành chính:
· Căn cứ áp dụng: khi có căn cứ cho rằng trong phương tiện vận tải, đồ vật đó có cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
· Thẩm quyền: Ngoài những người được quy định tại Điều 45 còn: Chiến sĩ CSND, cảnh sát viên Đội nghiệp vụ cảnh sát biển, chiến sĩ Bộ đội biên phòng, kiểm soát viên thị trường, nhân viên kiểm lâm, thuế vụ, thanh tra viên đang thi hành công vụ.
· Thủ tục:
Ø Khi tiến hành khám phương tiện vận tải, đồ vật phải có mặt chủ phương tiện vận tải, đồ vật hoặc người điều khiển phương tiện vận tải và một người chứng kiến.
Ø Trong trường hợp chủ phương tiện vận tải, đồ vật hoặc người điều khiển phương tiện vắng mặt thì phải có hai người chứng kiến.
Ø Mọi trường hợp khám phương tiện vận tải, đồ vật đều phải lập biên bản và giao cho chủ phương tiện vận tải, đồ vật hoặc người điều khiển phương tiện vận tải một bản.
+ Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính:
· Căn cứ: khi có căn cứ cho rằng nơi đó có cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
· Thẩm quyền:
Ø Những người qui định tại điều 45 có thẩm quyền.
Ø Trường hợp nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là nơi ở thì QĐ khám phải được sự đồng ý bằng văn bản của chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trước khi tiến hành.
· Thủ tục:
Ø Khi khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có mặt người chủ nơi bị khám hoặc người thành niên trong gia đình họ và người chứng kiến.
Ø Trường hợp người chủ nơi bị khám hoặc người thành niên trong gia đình họ vắng mặt mà việc khám không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và hai người chứng kiến.
Ø Không được khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp nhưng phải ghi rõ lí do vào biên bản.
Ø Mọi trường hợp khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đều phải có quyết định bằng văn bản và phải lập biên bản và phải giao chủ nơi bị khám 1 bản.
+ Bảo lãnh hành chính
· Là việc giao cho gia đình, tổ chức xã hội nhận quản lí, giám sát người có hành vi vi phạm pháp luật thuộc đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh trong thời gian cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục xem xét, QĐ việc áp dụng biện pháp này. Nếu người đó có nơi cư trú nhất định.
· Thẩm quyền: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.
· Thủ tục: Điều 16 - Nghị định 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003.
· Bảo lãnh hành chính được giao cho gia đình hoặc tổ chức xã hội nơi đối tượng cư trú thực hiện. Trong trường hợp người được bảo lãnh là người chưa thành niên thì bảo lãnh hành chính được giao cho cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó thực hiện.
+ Quản lí đối với người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời hạn làm thủ tục trục xuất
( Nghị định 97/2006/NĐ-CP)
+ Truy tìm đối tượng đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh trong trường hợp bỏ trốn
· Đối tượng trên trốn trước khi đưa vào trường hoặc cơ sở thì công an cấp huyện nơi người đó cư trú quyết định truy tìm.
· Trường hợp người đang chấp hành tại trường, cơ sở bỏ trốn thì Hiệu trưởng trường hoặc Giám đốc cơ sở ra quyết định tìm. Cơ quan công an phối hợp truy tìm.
· Nếu người bỏ trốn khi bị bắt lại mà họ đã đủ 18 tuổi thì Trưởng Công an cấp Huyện đề nghị chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện huỷ quyết định đưa vào trường giáo dưỡng và lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục.

c. Thẩm quyền và thủ tục xử lý vi phạm hành chính
* Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính
- Khác với việc xét xử các hành vi phạm tội mà ở đó thẩm quyền thực hiện công việc này được giao cho một cơ quan duy nhất thực hiện là TAND, việc xử phạt VPHC được giao cho nhiều cơ quan, cán bộ có thẩm quyền khác nhau thực hiện. Theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 cơ quan, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính gồm:
+ UBND các cấp (điều 28 – 30);
+ Cơ quan CAND (điều 31);
+ Bo đội biên phòng (điều 32);
+ Cơ quan Cảnh sát biển (điều 33);
+ Cơ quan hải quan (điều 34);
+ Cơ quan kiểm lâm (điều 35);
+ Cơ quan thuế (điều 36);
+ Cơ quan quản lý thị trường (điều 37);
+ Cơ quan Thanh tra chuyên ngành (điều 38);
+ Giám đốc cảng vụ hàng hải, Giám đốc cảng vụ thuỷ nội địa, Giám đốc cảng vụ hàng không (điều 39);
+ TAND và cơ quan thi hành án dân sự (điều 40).
Đồng thời, pháp luật cũng quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cụ thể của mỗi cán bộ có thẩm quyền xử phạt trong các cơ quan này.
- Uy quyền xử lý vi phạm hành chính: Điều 41 - PL
- Nguyên tắc xác định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính:
+ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại các điều từ Điều 31 đến Điều 40 của Pháp lệnh này có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực, ngành mình quản lý. Trong trường hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người, thì việc xử phạt do người thụ lý đầu tiên thực hiện.
+ Thẩm quyền xử phạt của những người được quy định tại các điều từ Điều 28 đến Điều 40 của Pháp lệnh này là thẩm quyền áp dụng đối với một hành vi vi phạm hành chính. Trong trường hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt được xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối với từng hành vi vi phạm cụ thể.
+ Trong trường hợp xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính, nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với từng hành vi đều thuộc thẩm quyền của người xử phạt, thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó; Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với một trong các hành vi vượt quá thẩm quyền của người xử phạt, thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt; Nếu các hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người thuộc các ngành khác nhau, thì quyền xử phạt thuộc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm.
*. Thủ tục xử lý vi phạm hành chính
- Thủ xử phạt vi phạm hành chính.
Pháp lệnh quy định hai loại thủ tục xử phạt vi phạm hành chính: thủ tục xử phạt đơn giản và thủ tục xử phạt có lập biên bản.
+ Thủ tục đơn giản:
v Được áp dụng để xử lý các vi phạm hành chính có tính chất đơn giản, rõ ràng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn về tài sản với hình thức phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 5000đ đến 100.000đ.
v Người có thẩm quyền xử phạt không lập biên bản mà ra quyết định xử phạt tại chỗ.
v Cá nhân, tổ chức vi phạm có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt; trong trường hợp nộp tiền phạt tại chỗ thì được nhận biên lai thu tiền phạt.
+ Thủ tục xử phạt có lập biên bản.
v Bước 1: Lập biên bản vi phạm hành chính
Đối với những vi phạm mà việc xử phạt không theo thủ tục đơn giản (mức phạt tiền trên 100.000 đồng) thì người có thẩm quyền phải kịp thời lập biên bản.
Thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính là người có thẩm quyền xử phạt đang thi hành công vụ và vụ việc phải thuộc lĩnh vực quản lý của mình. Nếu vụ vi phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển thì người chỉ huy tày bay, tàu biển có trách nhiệm lập biên bản.
Nội dung của biên bản vi phạm hành chính được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 55 và việc lập biên bản phải tuân thủ quy định tại khoản 3, 4 Điều 55.
v Bước 2: Ra quyết định xử phạt:
· Thời hạn ra quyết định xử phạt: Thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày, kể từ ngày lập biên bản về vi phạm hành chính; đối với vụ vi phạm hành chính có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 30 ngày. Trong trường hợp xét cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày . Quá thời hạn nói trên người có thẩm quyền xử phạt không được ra quyết định xử phạt, trừ trường hợp xử phạt trục xuất.
· Chú ý: Trong trường hợp không ra quyết định xử phạt thì vẫn có thể áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 12 của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và tịch thu tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành. Người có thẩm quyền xử phạt nếu có lỗi trong việc để quá thời hạn mà không ra quyết định xử phạt thì bị xử lý theo quy định tại Điều 121 của pháp lệnh này.
· Nội dung quyết định xử phạt: khoản 3 Điều 56
v Bước 3: Thi hành quyết định xử phạt:
Quyết định xử phạt hành chính có hiệu lực kể từ ngày ký, trừ trường hợp trong quyết định quy định thời hạn có hiệu lực khác. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt phải nộp tiền phạt và được nhận biên lai thu tiền phạt. Tiền phạt thu được phải nộp vào ngân sách nhà nước qua tài khoản mở tại kho bạc nhà nước. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được giao quyết định xử phạt, cá nhân, tổ chức bị xử phạt phải nộp tiền phạt tại kho bạc nhà nước được ghi trong quyết định xử phạt.
Nếu cá nhân, tổ chức bị xử phạt không tự nguyện chấp hành thì bị cưỡng chế thi hành bằng các biện pháp sau: khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ từ tài khoản ngân hàng; kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá…
Thủ tục cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế được quy định tại điều 66 và điều 67 Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002, và Nghị định số 37/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005.
- Về thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác được quy định tại các điều từ Điều 70 đến Điều 113 – Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 và các Nghị định 163, Nghị định 142, Nghị định 135 và Nghị định 76.

III. QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm, đặc điểm của quyết định QLHCNN.
a. Khái niệm.
Quyết định quản lý hành chính nhà nước là kết quả sự thể hiện ý chí quyền lực đơn phương của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, được ban hành trên cơ sở và để thi hành luật theo thủ tục do pháp luật quy định nhằm thực hiện các nhiệm vụ và chức năng quản lý hành chính nhà nước.
* Nội dung của khái niệm:
- Chủ thể ban hành quyết định QLHCNN là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền.
- QĐ QLHCNN được ban hành trên cơ sở và để thi hành luật theo thủ tục do pháp luật quy định
+ QĐ QLHCNN được ban hành nhằm thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH, Nghị quyết của HĐND, các quyết định của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trên các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính nhà nước.
+ Trình tự, hình thức, thẩm quyền ban hành của quyết định quản lý hành chính nhà nước phải theo quy định của pháp luật.
- Hệ quả pháp lý của quyết định quản lý hành nhà nước là:
+ Đặt ra những chủ trương, chính sách, nhiệm vụ của hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
+ Đặt ra, sửa đổi, bãi bỏ quy phạm pháp luật hành chính hoặc làm thay đổi hiệu lực pháp lý của chúng;
+ Làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể.
b. Đặc điểm của quyết định quản lý hành chính nhà nước
- Quyết định quản lý có tính ý chí bởi vì cũng như những các loại quyết định khác, nó là kết quả sự thể hiện ý chí của các cơ quan đó. Khi ra quyết định quản lý cơ quan có thẩm quyền đều nhân danh nhà nước, vì lợi ích của nhà nước. Trong quyết định QLHCNN ý chí nhà nước thể hiện tập trung nhất.
- Tính quyền lực nhà nước, thể hiện ở chỗ đó là ý chí đơn phương của nhà nước mà mọi chủ thể pháp luật khác đều buộc phải tuân theo, nếu họ thuộc phạm vi tác động của quyết định. Trong trường hợp các chủ thể pháp luật khác không tự giác tuân theo thì sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước khác.
Hai đặc điểm này cho phép phân biệt QĐQLHCNN với các hoạt động tổ chức – xã hội trực tiếp, các tác nghiệp vật chất – kỹ thuật …
Các hoạt động tổ chức – xã hội trực tiếp như tổ chức hội nghị, tổ chức mitinh, thực hiện các hoạt động tuyên truyền pháp luật… và các tác nghiệp vật chất – kỹ thuật như soạn thảo, lưu trữ văn bản quản lý … đều do các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và những người có thẩm quyền của các cơ quan đó thực hiện. Tuy nhiên các hoạt động này không mang tính ý chí và tính quyền lực nhà nước.
- Tính pháp lý của quyết định quản lý hành chính nhà nước được thể hiện ở hệ quả pháp lý của nó.
Quyết định quản lý xuất hiện sẽ làm thay đổi cơ chế điều chỉnh của pháp luật:
+ Đặt ra những chủ trương, chính sách, nhiệm vụ của hoạt động quản lý.
+ Đặt ra, sửa đổi, bãi bỏ quy phạm pháp luật hành chính hay làm thay đổi phạm vi hiệu lực của chúng.
+ Làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể.
- Quyết định quản lý hành chính nhà nước có tính dưới luật.
Tính dưới luật của quyết định QLHCNN được thể hiện ở 3 nội dung: QĐ QLHCNN phải có nội dung phù hợp với luật, QĐ QLHCNN được ban hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và hình thức của QĐ QLHCNN cũng do pháp luật quy định.
+ Nội dung của quyết định QLHCNN được ban hành phải phù hợp và để thi hành không chỉ Hiến pháp, luật, pháp lệnh mà mọi quyết định của các cơ quan QLHCNN cấp trên và cơ quan quyền lực cùng cấp.
+ Việc ban hành các quyết định quản lý hành chính nhà nước cần tuân theo những thủ tục nghiêm ngặt. Tất cả các quyết định quản lý hành chính nhà nước đều được chuẩn bị, xây dựng, ban hành theo một trình tự do pháp luật quy định.
+ Hình thức quyết định ở đây được hiểu trước hết là tên gọi, thể thức, chữ ký, con dấu, số của quyết định… vì vậy, những sai sót về hình thức cũng có làm cho quyết định QLHCNN không có giá trị pháp lý, phải bãi bỏ hoặc ban hành lại.
- Quyết định quản lý hành chính nhà nước được ban hành để giải quyết các công việc trong lĩnh vực chấp hành và điều hành.
Chủ thể chủ yếu ban hành quyết định quản lý hành chính nhà nước là các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, tuy nhiên trong một chừng mực nhất định, các cơ quan nhà nước khác cũng ban hành quyết định quản lý hành chính nhà nước khi thực hiện những mặt hoạt động mang tính chấp hành và điều hành, ngoài chức năng chính của mình. Do đó, hoạt động chấp hành và điều hành là giới hạn để phân biệt quyết định quản lý hành chính nhà nước với các loại quyết định pháp luật khác phát sinh trong lĩnh vực xét xử, tố tụng và quyết định pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành.
Câu hỏi tự học:
Quyết định quản lý hành chính nhà nước có những điểm gì khác so với quyết định pháp luật do cơ quan lập pháp và do cơ quan tư pháp ban hành?

2. Thủ tục xây dựng và ban hành quyết định QLHCNN:
a. Sáng kiến ban hành:
- Đây là giai đọan đầu của việc ra quyết định, tuy nhiên tuỳ thuộc vào tính chất, nội dung, mục đích của quyết định để có được sáng kiến ban hành.
- Căn cứ để có sáng kiến:
+ Nhu cầu thực tế cần quản lí để xác định phạm vi, nội dung, đối tượng cần quản lí;
+ Căn cứ vào quy định của pháp luật
b. Dự thảo:
-Thu thập thông tin:
+ Đòi hỏi phải mang tính toàn diện, lấy văn bản hiện hành làm căn cứ pháp lí cho văn bản sẽ ban hành.
+ Cách thu thập: qua tổng kết đánh giá thực tiễn, qua khảo sát điều tra thực tiễn.
- Căn cứ vào mục đích, yêu cầu của vấn đề mà quyết định cần giải quyết để ra dự thảo.
- Người dự thảo phải nắm vững kiến thức pháp luật, am hiểu chuyên môn nghiệp vụ để làm chính xác quan điểm chỉ đạo, phạm vi điều chỉnh của văn bản.
- Lấy ý kiến của cơ quan, của những người có trách nhiệm để đóng góp vào dự thảo.
c. Trình và thông qua dự thảo:
- Thông qua chế độ tập thể để tập thể đóng góp ý kiến và biểu quyết theo đa số.
- Thông qua chế độ một thủ trưởng: trên nguyên tắc tập trung dân chủ người thủ trưởng có quyền quyết định theo thẩm quyền và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
d. Đưa quyết định đến đối tượng thi hành:
- Đưa đến các cơ quan để họ tổ chức thực hiện, hay thông qua các phương tiện thông tin đại chúng: báo chí, đài phát thanh tuyền hình
- Đăng trên các công báo đển ấn phẩm chính thức những văn bản sau khi được ban hành.
Ví dụ: nước ta có một tờ công báo: ấn phẩm chính thức, công bố văn bản quy phạm pháp luật của cấp Trung ương.

IV. THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
1. Khái niệm và đặc điểm của thủ tục hành chính
- Khái niệm
Thủ tục hành chính là trình tự thực hiện thẩm quyền của các cơ quan hành chính Nhà nước hoặc cá nhân, tổ chức được uỷ quyền trong việc giải quyết các công việc của Nhà nước và các kiến nghị, yêu cầu chính đáng của công dân hoặc tổ chức nhằm thi hành nghĩa vụ hành chính, đảm bảo công vụ của Nhà nước và phục vụ nhân dân.
Nội dung của khái niệm:
+ Thủ tục hành chính do pháp luật quy định.
Thủ tục hành chính do pháp luật quy định, chính vì thế nó có tính bắt buộc thi hành đối với các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành thủ tục hành chính và mọi công dân, tổ chức tham gia vào thủ tục hành chính.
Toàn bộ các quy phạm pháp luật về thủ tục hành chính tạo thành chế định quan trọng của luật hành chính nó cho biết các quy phạm nội dung của luật hành chính được thực hiện bằng cách nào.
Chẳng hạn như, bằng cách nào để có thể đăng ký được hộ khẩu? Cần những giấy tờ gì để có được giấy phép hành nghề hợp pháp? Hoặc bằng cách nào để vay vốn sản xuất…
Quy phạm thủ tục hành chính còn có tên gọi là quy phạm hình thức. Thiếu bộ phận này, luật pháp sẽ không có đủ điều kiện để đi vào đời sống. Vì vậy, trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, sau các quy định về nội dung là những quy phạm thủ tục để thực hiện nội dung đó.
- Thủ tục hành chính diễn ra trong lĩnh vực chấp hành và điều hành.
Nếu có sự thừa nhận hoạt động của nhà nước có sự phân công và phối hợp chặt chẽ trên các lĩnh vực lập pháp, tư pháp và hành pháp thì tương ứng chúng ta có thủ tục lập pháp, thủ tục tư pháp và thủ tục hành chính. Thủ tục lập pháp là thủ tục xây dựng Hiến pháp, luật, các văn bản mang tính luật. Thủ tục tư pháp là thủ tục xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính do TA, VKS tiến hành. Còn thủ tục hành chính là thủ tục giải quyết các công việc mang tính chấp hành và điều hành. Đó chủ yếu là các thủ tục tiến hành các hoạt động công vụ nhằm hỗ trợ, tổ chức hay tạo điều kiện để các hoạt động của đời sống xã hội, hoạt động kinh tế được thực hiện thuận lợi.
+ Chỉ có các hoạt động quản lý hành chính được quy phạm thủ tục hành chính điều chỉnh mới tạo thành thủ tục hành chính, còn các hoạt động tổ chức – tác nghiệp cụ thể nào đó trong hoạt động quản lý hành chính không mang nội dung quyền lực nhà nước, không được các quy phạm thủ tục hành chính điều chỉnh thì không được thực hiện theo thủ tục hành chính.
Ví dụ: thủ tục tiến hành hội nghị, tổ chức cuộc họp, thủ tục mượn sách thư viện… đều không phải là thủ tục hành chính.
- Những đặc điểm của thủ tục hành chính
+ Thứ nhất, thủ tục hành chính được thực hiện bởi nhiều cơ quan và công chức nhà nước.
Quản lý hành chính nhà nước được tiến hành bởi nhiều chủ thể khác nhau có thẩm quyền quản lý nhiều lĩnh vực khác nhau, nhiều cấp khác nhau, vì vậy khác với thủ tục lập pháp chỉ do QH tiến hành, khác với thủ tục tố tụng chỉ do các cơ quan như VKS, TA, cơ quan điều tra thực hiện, thủ tục hành chính được tiến hành bởi nhiều cơ quan và công chức nhà nước.
- Thứ hai, đối tượng công việc cần thực hiện rất phức tạp.
Thủ tục hành chính là thủ tục giải quyết các công việc nội bộ nhà nước và giải quyết các công việc liên quan đến quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của công dân.
Do vậy đối tượng công việc cần thực hiện rất phức tạp. Có việc cần phải thực hiện nhanh, gọn qua ít khâu, cấp, nhưng nhiều trường hợp đòi hỏi phải thận trọng, qua nhiều khâu và yêu cầu các loại giấy tờ xác minh tỷ mỷ.
- Thứ ba, thủ tục hành chính phải kết hợp những khuôn mẫu ổn định tương đối với các biện pháp thích hợp, được việc và tuỳ từng trường hợp cụ thể.
- Quản lý hành chính nhà nước chủ yếu là hoạt động cho phép, ra mệnh lệnh có tính chất đơn phương và thi hành ngay nhằm giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả mọi công việc biến động hàng ngày của xã hội. Do đó thủ tục hành chính mang tính khuôn mẫu, ổn định tương đối.
Tuy nhiên quản lý hành chính nhà nước cũng diễn ra nhiều hoạt động phong phú và đa dạng khác nhau vì vậy thủ tục hành chính phải kết hợp những khuôn mẫu ổn định tương đối với các biện pháp thích hợp khi giải quyết từng trường hợp cụ thể.
- Thứ tư, thủ tục hành chính rất đa dạng và phong phú.
Xuất phát từ đặc điểm quản lý hành chính nhà nước là diễn ra trên nhiều lĩnh vực, đối tượng quản lý đa dạng, nội dung công việc phong phú vì vậy mà thủ tục hành chính cũng rất đa dạng và phong phú. Chẳng hạn trong mỗi lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau chúng ta đều có thủ tục để giải quyết công việc trong lĩnh vực ấy. Ví dụ: thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, nhà đất, TTATGT.. và trong từng lĩnh vực, chúng ta lại có các thủ tục khác nhau để giải quyết các công việc cụ thể khác nhau. Ví dụ: thủ tục ban hành VBQPPL, thủ tục ban hành VBADQPPL, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính…
+ Thứ năm, các thủ tục hành chính do nhà nước được thực hiện chủ yếu tại văn phòng của công sở nhà nước và phương tiện truyền đạt quyết định cũng như các thông tin quản lý phần lớn là văn bản (công văn, giấy tờ). Vì thế, nó gắn chặt với công tác văn thư.
2. Các nguyên tắc thực hiện thủ tục hành chính:
- Chỉ có cơ quan Nhà nước người có thẩm quyền do pháp luật qui định mới được thực hiện các thủ tục hành chính.
Nguyên tắc này đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
Theo nguyên tắc này thì chỉ những cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được tiến hành các thủ tục hành chính nhất định.
- Khi thực hiện thủ tục hành chính phải đảm bảo chính xác, khách quan, công minh.
+ Tính chính xác, khách quan khi thực hiện thủ tục hành chính thể hiện ở chỗ: Cơ quan tiến hành thủ tục phải có đủ tài liệu, chứng cứ khi xem xét giải quyết công việc, đảm bảo thực hiện đúng các yêu cầu của thủ tục nhằm giải quyết một cách đúng đắn nhất các công việc của nhà nước, các kiến nghị, yêu cầu hợp pháp của công dân, tổ chức. Khi thực hiện thủ tục hành chính phải bảo đảm tính khách quan, không vì vụ lợi mà gây thiệt hại cho nhà nước, tập thể và cá nhân.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi:
Thứ nhất, các cơ quan nhà nước phải có quyền được yêu cầu cung cấp thông tin, và các cơ quan, tổ chức và cá nhân phải có nghĩa vụ cung cấp một cách chính xác, đầy đủ các thông tin khi được yêu cầu.
Ngoài ra các cơ quan nhà nước phải có một chế độ công vụ rõ ràng và khoa học, có sự phân công trách nhiệm rõ ràng, rành mạch.
Thứ hai, các cơ quan cần có đủ cán bộ có trình độ nghiệp vụ để thực thi công vụ, có phẩm chất đạo đức tốt và có trách nhiệm cao với công việc được giao và đảm bảo được trang bị những phương tiện vật chất phù hợp.
Cán bộ không có trình độ nghiệp vụ đầy đủ, hay không có phẩm chất đạo đức tốt, không có tinh thần trách nhiệm cao cũng là những nguyên nhân làm cho thủ tục hành chính không được thực hiện một cách chính xác và nghiêm túc.
Do vậy, để thủ tục hành chính được thực hiện chính xác, khách quan, công minh thì đòi hỏi cán bộ thực hiện phải có kiến thức chuyên môn vững chắc, nắm vững không những những thủ tục giải quyết công việc của mình mà còn những thủ tục giải quyết các công việc có liên quan. Ngoài ra đó phải là những cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có trách nhiệm với công việc, tận tụy phục vụ nhân dân. Đồng thời họ phải được trang bị những phương tiện vật chất cần thiết phục vụ cho việc bảo quản, xử lý, lưu trữ và tìm kiếm thông tin như hệ thống sổ sách, các thiết bị CNTT…
Chính vì vậy, các cơ quan phải có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, giáo dục đạo đức chính trị tư tưởng, có chế độ đãi ngộ hợp lý và trang bị những phương tiện vật chất đầy đủ.
- Thủ tục hành chính phải rõ ràng, và được thực hiện công khai.
+ Thủ tục hành chính phải rõ ràng.
Đây là một nguyên tắc quan trọng vì sự thiếu rõ ràng của hệ thống thủ tục hành chính trong việc giải quyết các nhu cầu, đề nghị của công dân, tổ chức gây nhiều khó khăn cho công dân, tổ chức khi đến cơ quan quản lý nhà nước để xin giải quyết một vấn đề nào đó. Và sự không rõ ràng của thủ tục hành chính là mảnh đất nảy sinh tiêu cực trong thực hiện thủ tục hành chính. Bởi vì người dân không biết mình phải thực hiện những quy định gì, các quy định đó được giải quyết ở đâu? Chẳng hạn như các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam rất hoan nghênh luật đầu tư nước ngoài của nước ta, nhưng điều băn khoăn và nhiều khi nản chí là các thủ tục để triển khai một dự án (thẩm định, phê duyệt…) của chúng ta hết sức không rõ ràng. Do sự không rõ ràng này mà trong quá trình tiến hành thẩm định các dự án, các nhà quản lý đã lợi dụng làm ăn không hợp pháp hoặc gây ra sự chậm trễ trong quá trình phê duyệt.
Thủ tục hành chính rõ ràng đòi hỏi thủ tục hành chính phải được xây dựng một cách khoa học, hợp lý, dễ hiểu và dễ thực hiện.
+ Thủ tục hành chính phải công khai:
Công khai hoá quy trình, thủ tục hành chính, đặc biệt là thủ tục hành chính trong việc giải quyết các yêu cầu, đề nghị của công dân, các tổ chức là đều kiện góp phần tăng hiệu quả của quá trình giải quyết các yêu cầu của công dân, các tổ chức. Công dân, các tổ chức biết rõ được họ cần phải làm gì, cần chuẩn bị những vấn đề gì, loại giấy tờ gì trước khi đến cơ quan yêu cầu giải quyết công việc. Mặt khác người thừa hành công vụ sẽ không có điều kiện để lợi dụng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân. Công khai còn là cơ sở để kiểm tra quá trình thực hiện thủ tục, do đó nó là căn cứ để đánh giá trách nhiệm của nhà nước trong việc thực hiện nghĩa vụ với dân, nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức thực hiện thủ tục hành chính.
Nghị quyết 38/CP ngày 4/5/1994 của Chính phủ về cải cách một bước thủ tục hành chính trong giải quyết các công việc của công dân và tổ chức cũng quy định nguyên tắc công khái: “Sau khi các thủ tục hành chính được rà soát, xét lại, bộ trưởng thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi quản lý của mình, phải công bố công khai hệ thống các văn bản quy định thủ tục mới để mọi cơ quan, đơn vị được biết và thực hiện”
Như vậy, công khai các thủ tục hành chính cũng là sự biểu hiện cao nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đảm bảo cho hệ thống pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh. Nguyên tắc này đảm bảo quyền thông tin của người dân, một quyền cơ bản trong một xã hội dân chủ.
Trong trường hợp pháp luật qui định phải bí mật theo quy định chung thì không được công khai.
- Các bên tham gia thủ tục hành chính bình đẳng trước pháp luật.
Giữa chủ thể tham gia và chủ thể thực hiện thủ tục hành chính bình đẳng với nhau trước pháp luật. Cụ thể là:
+ Đối với chủ thể tham gia, tức là cá nhân, tổ chức có yêu cầu giải quyết công việc phải đảm bảo thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục do pháp luật quy định, phải đảm bảo có đủ những loại giấy tờ cần thiết có giá trị pháp lý mà pháp luật quy định.
+ Đối với chủ thể thực hiện thủ tục hành chính (Cơ quan hành chính Nhà nước, cán bộ có thẩm quyền) phải giải quyết yêu cầu, đòi hỏi của công dân, tổ chức khi đề nghị của họ có đủ điều kiện luật định.
Cần tránh tình trạng yêu cầu của dân gởi đến cơ quan nhà nước không được giải quyết kịp thời, mặc dù thủ tục hoàn toàn đầy đủ, chính xác.
+ Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này, đòi hỏi những quy định về thủ tục hành chính phải rõ ràng, cụ thể, quy định rõ trách nhiệm, nội dung, thời hạn giải quyết công việc của cơ quan nhà nước, cán bộ có thẩm quyền.
- Thủ tục hành chính được thực hiện đơn giản tiết kiệm.
Thực tế hiện nay, thủ tục hành chính của ta còn rườm rà, phức tạp qua nhiều cửa khác nhau vì vậy, nguyên tắc thủ tục hành chính được thực hiện đơn giản, tiết kiệm có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, giảm phiền hà, tốn kém cho người dân và các doanh nghiệp.
Thủ tục hành chính đơn giản, tiết kiệm sẽ là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển kinh tế
Ví dụ: thủ tục cấp phép đầu tư đơn giản đã tạo điều kiện cho BD thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư tại Tỉnh.
Thủ tục hành chính được thực hiện đơn giản, tiết kiệm đòi hỏi phải giảm bớt các cấp, các cửa các giai đoạn. Giảm tới mức tối thiểu và trong nhiều thủ tục bỏ hẳn các loại phí, lệ phí đối với công dân, tổ chức.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải:
Thứ nhất: rà soát lại các văn bản pháp luật về thủ tục hành chính, bãi bỏ các cửa, các cấp các khâu không cần thiết, bỏ bớt các loại giấy tờ không cần thiết.
Thứ hai: có sự phân công rành mạch rõ ràng trách nhiệm giữa các cơ quan, bộ phân trong cùng một cơ quan và từng cán bộ có thẩm quyền, tránh sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ cũng như tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm cho nhau do các quy định về trách nhiệm, quyền hạn không rõ ràng.
Thứ ba: ứng dụng CNTT vào việc thực hiện thủ tục hành chính.
Ví dụ: hiện nay, BCA đã có chủ trương đăng ký tạm trú cho khách lưu trú của các khách sạn, nhà nghỉ được thực hiện thông qua mạng Internet.
Thứ tư: nâng cao trình độ nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm, kỹ năng giao tiếp của từng cán bộ, công chức thực hiện thủ tục hành chính
Như vậy, chúng ta vừa nghiên cứu các nguyên tắc thực hiện thủ tục hành chính. Hiện nay, để đảm bảo thực hiện các nguyên tắc này, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước đang xây dựng và hoạt động theo mô hình “ Một cửa, một dấu”.
Vậy, thế nào là mô hình một của, một dấu?
Bản chất của mô hình thủ tục hành chính “một cửa” là nhằm giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà và không cần thiết, tập trung việc giải quyết các thủ tục hành chính vào một đầu mối thống nhất để tiện lợi cho người dân và tổ chức khi có yêu cầu giải quyết công việc mà nhà nước cần quản lý.
Cụ thể là người dân và các tổ chức khi có nhu cầu liên hệ với cơ quan nhà nước chỉ cần đến một nơi nhất định để các nộp hồ sơ cần thiết theo sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng và nhận kết quả của cơ quan có thẩm quyền cũng chính từ nơi đó.
Cơ chế “một dấu” được hiểu là trong quá trình giải quyết các dịch vụ hành chính có thể có nhiều bộ phận chức năng tham gia, nghiên cứu cách đề xuất cụ thể, nhưng cuối cùng chỉ cần có một cơ quan có đủ thẩm quyền quyết định để tránh gây phiền hà và sách nhiễu dân.
Có rất nhiều loại dịch vụ hành chính có thể thực hiện theo cơ chế “một cửa”, ví dụ: cấp các loại giấy phép, xác nhận các loại giấy tờ, giải quyết khiếu nại, tố cáo…
Câu hỏi nghiên cứu:
Thực trạng thủ tục hành chính ở nước ta hiện nay như thế nào? Để giải quyết tình trạng trên thì việc cải cách thủ tục hành chính phải được tiến hành theo hướng nào?