Thứ Năm, 17 tháng 7, 2008

GIÁO ÁN LUẬT NHÀ NƯỚC

CHƯƠNG I
LUẬT HIẾN PHÁP
TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1. Khái niệm và đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp
Khi tìm hiểu khái niệm của ngành luật, trước hết cần làm sáng tỏ và xác định đối tượng điều chỉnh của nó. Tìm hiểu đối tượng điều chỉnh của luật Hiến pháp, trước hết là tìm hiểu vấn đề về tính chất, khối lượng và các đặc điểm của các quan hệ xã hội được luật Hiến pháp điều chỉnh.
Các quan hệ xã hội được luật Hiến pháp ghi nhận và điều chỉnh là rất phức tạp. Các quan hệ xã hội đó có thể được phân thành các nhóm như sau:
- Các quan hệ đặc trưng cho cơ sở của chế độ xã hội và chính sách của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tức là chế độ chính trị, chế độ kinh tế, cơ sở xã hội, các hướng hoạt động quan trọng nhất của Nhà nước trong lĩnh vực phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, chính sách đối ngoại và việc thực hiện chức năng bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Các quan hệ liên quan đến việc xác định địa vị của cá nhân trong xã hội và việc đảm bảo sự phát triển toàn diện của cá nhân. Các quan hệ đó được thể hiện trong các chế định pháp lý về quốc tịch, các quyền tự do và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
- Các quan hệ liên quan đến việc ghi nhận hình thức, chế độ Nhà nước. Đó là các quan hệ xác định việc phân chia thẩm quyền giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước theo chiều ngang cũng như theo chiều dọc.
- Các quan hệ liên quan đến việc ghi nhận hệ thống các cơ quan nhà nước và việc điều chỉnh hoạt động của các cơ quan đó.
Khác với ngành luật khác, Luật Hiến pháp chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng nhất trong các lĩnh vực đã nêu trên và ở mức độ khái quát nhất. Điều đó làm cho Luật Hiến pháp trở thành ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Điều đó có nghĩa rằng, tất cả các ngành luật khác, suy cho cùng, đều xuất phát và dựa vào các nguyên tắc, qui định được ghi nhận trong các qui phạm của luật Hiến pháp.
Từ những điều nói trên chúng ta đi đến định nghĩa sau: Luật Hiến pháp Việt Nam là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm tổng thể các qui phạm pháp luật ghi nhận các nguyên tắc cơ bản và các cơ sở của chế độ chính trị, kinh tế, xã hội của Nhà nước, các cơ sở về địa vị pháp Iý của cá nhân, hình thức và hệ thống các cơ quan nhà nước và trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước.
2. Phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp
Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật nói chung là cách thức mà Nhà nước sử dụng thông qua pháp luật để tác động đến cách xử sự của những chủ thể tham gia các quan hệ xã hội. Khi điều chỉnh các quan hệ xã hội, mỗi ngành luật có phương pháp điều chỉnh không giống nhau. Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật tuỳ thuộc vào đối tượng điều chỉnh của nó.
Luật Hiến pháp có đối tượng điều chỉnh riêng, do đó có những phương pháp điều chỉnh nhất định phù hợp với tính chất, đặc điểm của các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của nó. Luật Hiến pháp tác động đến các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của nó bằng hai phương thức (phương pháp) sau:
Thứ nhất: bằng cách ghi nhận những nguyên tắc chính trị, kinh tế và tổ chức quan trọng nhất của chế độ xã hội và Nhà nước ở nước ta. Bằng phương pháp này, luật Hiến pháp buộc các chủ thể tham gia các quan hệ luật Hiến pháp phải tuân theo.
Các qui định đó là sự thể hiện về mặt pháp lý bản chất của chế độ xã hội ở nước ta, xác định hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân.
Xác định những qui định chung mang tính nguyên tắc định hướng, chỉ đạo đối với các chủ thể tham gia các quan hệ luật Hiến pháp là phương pháp điều chỉnh đặc thù của luật Hiến pháp, xuất phát từ đặc điểm của đối tượng - các quan hệ xã hội được ngành luật Hiến pháp diều chỉnh.
Thứ hai: bằng cách quy định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể tham gia quan hệ luật Hiến pháp. Bằng phương pháp này luật Hiến pháp xác định các quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể cụ thể trong từng mối quan hệ pháp luật cụ thể.
Ví dụ, Hiến pháp qui định: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” (Điều 83)……
3. Quy phạm pháp Luật Hiến pháp và quan hệ Luật Hiến pháp.
3.1. Các qui phạm Luật Hiến pháp Việt Nam là một bộ phận hợp thành của hệ thống pháp luật Việt Nam. Do vậy, chúng có đầy đủ các thuộc tính chung của qui phạm pháp luật như: qui phạm là khuôn mẫu, mô hình, đòi hỏi, thước đo của hành vi xử sự; qui phạm được hình thành trên cơ sở nhận thức các qui luật vận động khách quan của tự nhiên hay xã hội; qui phạm là phương án xử sự được thừa nhận nhằm đáp ứng các nhu cầu, lợi ích, mục đích của cá nhân, nhóm xã hội, giai cấp hay của xã hội nói chung; nội dung của quy phạm phản ánh chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong những điều kiện nhất định; quy phạm có cơ cấu nhất định.
Đồng thời do đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp có những đặc điểm riêng, nên các quy phạm luật Hiến pháp cũng có những đặc điểm riêng nhất định.
Thứ nhất; phần lớn các quy phạm của Luật Hiến pháp được ghi nhận trong đạo luật cơ bản – Hiến pháp.
Thứ hai; xét về cấu trúc nhìn chung các quy phạm luật Hiến pháp không đủ ba bộ phận hợp thành; phần giả định; phần quy định; phần chế tài. Thông thường, các quy phạm pháp luật Hiến pháp chỉ có hai bộ phận, đó là giả định và quy định, rất ít quy phạm có đầy đủ ba bộ phận hợp thành nói trên.
Phần lớn các quy phạm của luật Hiến pháp điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng việc chỉ ra các quy định chung nhất trong việc định hướng xã hội đối với cá nhân; ghi nhận các nguyên tắc, xác định cơ cấu các cơ quan...Và điều đó không thể không phản ánh trong các đặc điểm và cơ cấu của qui phạm luật Hiến pháp. Chẳng hạn, qui phạm được thể hiện ở Điều 2 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân...”.
3.2. Các qui phạm luật Hiến pháp rất phong phú, đa dạng và được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Do vậy, để thuận tiện cho việc hệ thống hoá, nghiên cứu và áp dụng cần phân chúng thành các loại khác nhau, tức là thành các nhóm qui phạm cụ thể có những dấu hiệu giống nhau. Việc phân loại các qui phạm luật Hiến pháp thành các loại khác nhau có thể căn cứ vào các dấu hiệu khác nhau.
- Căn cứ vào khách thể được ghi nhận hoặc được điều chỉnh bằng các qui phạm luật Hiến pháp, thì các qui phạm luật Hiến pháp được phân thành: các qui phạm ghi nhận các nguyên tắc và cơ sở quan trọng nhất của chế độ xã hội trong các lĩnh vực: chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, chế độ an ninh quốc phòng; các qui phạm ghi nhận địa vị pháp lý của công dân; các qui phạm qui định cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và mối quan hệ giữa các cơ quan đó với nhau.
- Căn cứ vào mức độ xác định của các qui tắc trong việc xử sự của các chủ thể được thể hiện trong các qui phạm, các qui phạm luật Hiến pháp được phân thành: các qui phạm qui định qui tắc xử sự cụ thể, rõ ràng ở dạng chỉ rõ, cụ thể các quyền, nghĩa vụ tương ứng hoặc điều cấm cụ thể của các chủ thể tham gia các quan hệ luật Hiến pháp và các qui phạm không chỉ ra các quyền và nghĩa vụ cụ thể, mà chỉ ghi nhận các nguyên tắc chung nào đó, chẳng hạn, nguyên tắc về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội và Nhà nước...
- Căn cứ vào lĩnh vực, phạm vi áp dụng, các qui phạm luật Hiến pháp được phân thành: các qui phạm chung, tức là các qui phạm được áp dụng đối với mọi lĩnh vực quan hệ được luật Hiến pháp điều chỉnh, ví dụ: qui phạm qui định nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhóm các qui phạm riêng, tức là các qui phạm được áp dụng đối với một lĩnh vực quan hệ nhất định, ví dụ: các qui phạm liên quan đến việc bầu cử, nhóm các qui phạm đặc biệt, tức là các qui phạm khác với các qui tắc chung.
- Dựa vào tính chất của sự thể hiện và hiệu lực pháp lý, các qui phạm luật Hiến pháp được phân thành: các qui phạm được thể hiện trong Hiến pháp; các qui phạm được thể hiện trong các luật, pháp lệnh các qui phạm thể hiện trong các nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân các cấp.
- Căn cứ vào thời điểm có hiệu lực, các qui phạm luật Hiến pháp được phân thành: các qui phạm có hiệu lực sau ngày công bố và các qui phạm có hiệu lực sau khi qua một thời hạn nhất định được chỉ ra trong văn bản.
- Căn cứ vào giới hạn lãnh thổ hành chính, các qui phạm luật Hiến pháp được phân thành: các qui phạm có hiệu lực trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, các qui phạm chỉ có hiệu lực trong phạm vi một tỉnh, một thành phố trực thuộc trung ương, trong một huyện, quận nhất định.
Tổng thể các qui phạm luật Hiến pháp điều chỉnh một nhóm quan hệ cùng loại tạo thành sự thống nhất nhất định được gọi là chế định luật Hiến pháp. Ví dụ: chế định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chế định quốc tịch. . .
3.3. Trong quá trình thực hiện các qui phạm luật Hiến pháp các quan hệ luật Hiến pháp phát sinh, tức là các quan hệ ở đó những chủ thể tham gia thể hiện với tính cách là những chủ thể có các quyền và nghĩa vụ được luật Hiến pháp qui định.
Các quan hệ luật Hiến pháp là một trong các loại quan hệ pháp luật tồn tại trong xã hội chúng ta. Do vậy, chúng cũng có tất cả các đặc điểm đặc trưng cho quan hệ pháp luật nói chung: các quan hệ đó thể hiện mối liên hệ nhất định về mặt pháp lý giữa các chủ thể tương ứng; chúng được Nhà nước xác định và là quan hệ ý chí.
Nhưng quan hệ luật Hiến pháp là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt, có những đặc điểm riêng khác với các loại quan hệ pháp luật khác. Các đặc điểm riêng của quan hệ luật Hiến pháp là: 1, nội dung pháp lý đặc biệt được quyết định bởi tính chất của đối tượng điều chỉnh của luật Hiến pháp; 2, vị trí và vai trò đặc biệt của các quan hệ luật Hiến pháp trong hệ thống các quan hệ pháp luật, 3, nhóm chủ thể đặc biệt của các quan hệ đó.
Các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tạo thành nội dung pháp lý của các quan hệ pháp luật. Do vậy, cần tìm hiểu các đặc điểm của nội dung các quan hệ luật Hiến pháp trong tính chất các quyền và nghĩa vụ do các qui phạm luật Hiến pháp qui định.
Các đặc điểm đặc trưng của các quyền và nghĩa vụ đó thể hiện:
Trước hết, chúng thể hiện đầy đủ, rõ nét nhất chủ quyền của nhân dân Việt Nam và các dân tộc ở nước ta xác định địa vị pháp lý của công dân Việt Nam trong xã hội và Nhà nước, liên quan chặt chẽ với việc thể hiện và thực hiện quyền lực của nhân dân.
Thứ hai: phần nhiều quan hệ luật Hiến pháp mang tính chất chung, được thể hiện ở trạng thái pháp lý (ví dụ: trạng thái của các công dân trong chế định quốc tịch Việt Nam).
Thứ ba thể hiện ở chỗ các quan hệ luật Hiến pháp có cấu thành chủ thể đặc biệt. Các chủ thể của các quan hệ đó là: 1, Nhân dân Việt Nam; 2, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghiã Việt Nam; 3, Các cơ quan nhà nước; 4, Các tổ chức xã hội; 5, Các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; 6, Những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội; 7, Công dân Việt Nam; 8, Người nước ngoài (không có quốc tịch Việt Nam) sinh sống và làm việc ở Việt Nam.
Quan hệ luật Hiến pháp có các khách thể nhất định. Đó là những đối tượng hoặc hiện tượng thực tế mà qui phạm luật Hiến pháp tác động đến, trên cơ sở đó gắn các quyền, nghĩa vụ và hành vi của các chủ thể tham gia vào các quan hệ luật Hiến pháp. Các khách thể có thể được phân thành các nhóm sau:
- Lãnh thổ quốc gia và các đơn vị địa giới hành chính.
- Những giá trị vật chất. Ví dụ, các qui phạm luật Hiến pháp ghi nhận nhóm khách thể thuộc quyền sở hữu Nhà nước như đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển thềm lục địa và vùng trời…
- Những quyền và giá trị phi vật chất (tinh thần). Chẳng hạn, Hiến pháp qui định công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào (Điều 70); công dân có quyền được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm (Điều 71).
- Hành vi của con người hoặc hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. Đó là khách thể của phần lớn các quan hệ luật Hiến pháp. Ví dụ, các qui phạm luật Hiến pháp qui định nhóm các khách thể như lao động, học tập, trình dự án luật, báo cáo công tác qui định kế hoạch và ngân sách, chất vấn của đại biểu Quốc hội . . .
Cơ sở của việc làm xuất hiện và thay đổi các quan hệ luật Hiến pháp là các sự kiện pháp lý nhất định. Các sự kiện pháp lý đó có thể được phân thành hai loại.
- Loại thứ nhất là những sự kiện pháp lý không phụ thuộc vào các chủ thể tham gia các quan hệ luật Hiến pháp. Ví dụ, sự kiện một công dân Việt Nam sinh ra một đứa trẻ làm nảy sinh quan hệ về quốc tịch. Cái chết là một sự kiện pháp lý làm chấm đứt quan hệ về quốc tịch.
- Loại sự kiện pháp lý thứ hai là các hoạt động (hành vi) pháp lý của các chủ thể tham gia các quan hệ luật Hiến pháp. Loại sự kiện này chiếm phần lớn trong các sự kiện pháp lý. Đến lượt mình, loại sự kiện pháp lý này được phân thành:
+ Các sự kiện pháp lý hợp pháp, tức là các sự kiện pháp lý trong đó chủ thể này hay chủ thể khác của quan hệ luật Hiến pháp thực hiện các hành vi được qui phạm pháp luật cho phép và phù hợp với qui phạm pháp luật;
+ Những sự kiện pháp lý không hợp pháp, tức là các hành vi vi phạm các quy định trong các qui phạm pháp luật tương ứng.
Các quan hệ luật Hiến pháp rất đa dạng, phong phú và điều đó quyết định sự cần thiết phân chúng thành những loại khác nhau.
- Căn cứ vào ý nghĩa mục đích của quan hệ pháp luật, các quan hệ luật Hiến pháp được phân thành: các quan hệ pháp luật quy định quyền và các quan hệ pháp luật bảo vệ quyền.
- Căn cứ vào hình thức của quan hệ pháp luật, các quan hệ luật Hiến pháp được phân thành: quan hệ pháp luật ở ý nghĩa riêng của nó và trạng thái pháp lý.
- Căn cứ vào chủ thể của quan hệ pháp luật, các quan hệ luật Hiến pháp được phân thành: a: các quan hệ pháp luật, trong đó có chủ thể tham gia là nhân dân Việt Nam thể hiện ý chí của mình (ví dụ, các quan hệ pháp luật liên quan đến việc trưng cầu ý dân); b: các quan hệ pháp luật, trong đó có chủ thể tham gia là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (ví dụ, các quan hệ liên quan đến việc giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng); c: các quan hệ pháp luật, trong đó có chủ thể tham gia là các cơ quan nhà nước (ví dụ, các quan hệ liên quan đến việc tổ chức và hoạt động của chính Phủ); d: các quan hệ pháp luật, trong đó có chủ thể tham gia là các tổ chức xã hội (ví dụ, các quan hệ thể hiện vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị); các quan hệ pháp luật trong đó có chủ thể tham gia là các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân (ví dụ, các quan hệ liên quan đến việc thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri); e, các quan hệ pháp luật, trong đó có chủ thể tham gia là thể nhân: công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không có quốc tịch Việt Nam (ví dụ, các quan hệ liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đến việc ra và nhập quốc tịch Việt Nam).
- Căn cứ vào thời gian trong đó các quan hệ pháp luật tồn tại, các quan hệ luật Hiến pháp được phân thành: các quan hệ pháp luật tồn tại trong một thời gian nhất định và các quan hệ pháp luật không bị hạn chế bởi một thời hạn cụ thể.
4. Hệ thống Luật Hiến pháp
Là một bộ phận hợp thành của hệ thống pháp luật, luật Hiến pháp Việt Nam có hệ thống bên trong của mình. Hệ thống luật Hiến pháp được hiểu là sự thống nhất của tất cả các qui phạm luật Hiế n pháp và sự sắp xếp lô gích, nhất quán các qui phạm đó theo những chế định có mối liên hệ hữu cơ, chặt chẽ với nhau.
Hệ thống của luật Hiến pháp là các cấu trúc bên trong của nó được qui định bởi các mối quan hệ nhân quả giữa các chế định khác nhau và các qui phạm của ngành pháp luật đó.
Vị trí của các chế định của luật Hiến pháp trong hệ thống của nó được quyết định bởi tính chất của nhóm các quan hệ xã hội được các qui phạm của chế định đó điều chỉnh và bởi tính chất của các mối quan hệ lẫn nhau giữa các chế định của pháp luật Hiến pháp.
- Các qui phạm của luật Hiến pháp điều chỉnh các quan hệ xã hội khác nhau. Điều đó quyết định sự cần thiết của việc sắp xếp các qui phạm khác nhau trong hệ thống luật Hiến pháp thành các chế định khác nhau. Đó là các chế định sau:
-Chế định về chế độ chính trị.
- Chế định về chế độ kinh tế.
- Chế định về văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ.
- Chế định về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Chế định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
- Chế định về bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
- Chế định về Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
- Chế định về Chủ tịch nước.
- Chế định về Chính phủ.
- Chế định về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
- Chế định về Toà án nhân dân.
- Chế định về Viện kiểm sát.
5. Nguồn của Luật Hiến pháp
Các qui phạm luật Hiến pháp Việt Nam, cũng như mọi qui phạm pháp luật khác được thể hiện trong những hình thức nhất định; thiếu các hình thức đó các qui phạm luật Hiến pháp không thể thực hiện được chức năng của mình.
Nguồn của luật Hiến pháp là những hình thức văn bản qui phạm pháp luật chứa đựng các qui phạm luật Hiến pháp. Qui phạm luật Hiến pháp có trong nhiều hình thức văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Nguồn của luật Hiến pháp hiện hành của Việt Nam gồm các hình thức văn bản quy phạm pháp luật sau:
- Hiến pháp, một số đạo luật và Nghị quyết do Quốc hội ban hành
- Một số Pháp lệnh và Nghị quyết do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành
- Một số văn bản pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành.
- Một số văn bản pháp luật do Hội đồng nhân dân các cấp ban hành.
6. Vai trò, vị trí của Luật Hiến pháp trong hệ thống pháp luật Việt Nam
5.1. Tất cả các ngành pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam đều hướng đến việc giải quyết các nhiệm vụ của công cuộc xây dựng xã hội mới ở nước ta do cương lĩnh và nghị quyết các Đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra. Tuy nhiên, mỗi ngành pháp luật hướng đến việc giải quyết, thực hiện các nhiệm vụ đó theo các cách riêng của mình.
Một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta là phát triển kinh tế, làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội, mở rộng hợp tác kinh tế với các nước. Luật Hiến pháp đóng vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết nhiệm vụ nêu trên. Vai trò đó của Hiến pháp thể hiện ở chỗ các qui phạm luật Hiến pháp ghi nhận các cơ sở nguyên tắc của chế độ kinh tế ở nước ta. Đó là các qui định khẳng định sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thừa nhận các hình thức sở hữu khác nhau, các hướng khuyến khích trong sự phát triển kinh tế nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng; ghi nhận vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế và các công cụ, phương tiện của việc quản lý kinh tế.
Nhiệm vụ khác của công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta là phát triển, hoàn thiện dân chủ, cải cách, đổi mới các cơ quan nhà nước, đặc biệt cải cách nền hành chính quốc gia. Vai trò của luật Hiến pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ đó thể hiện ở chỗ các qui phạm luật Hiến pháp ghi nhận hệ thống các hình thức công dân tham gia vào việc thực hiện quyền lực, vào việc quản lý các công việc của Nhà nước và của xã hội, hình thức và thủ tục chất vấn của cử tri đối với đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; trật tự dân chủ trong việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan đại diện quyền lực Nhà nước...
Việc củng cố và phát triển các mối quan hệ giữa các dân tộc, giải quyết tốt những vấn đề xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước ta hiện nay. Luật Hiến pháp tham gia vào việc giải quyết nhiệm vụ đó bằng cách ghi nhận các nguyên tắc quan trọng trong chính sách dân tộc như: bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, tiếng nói, chữ viết; qui định các quyền trong lĩnh vực xã hội của công dân và trách nhiệm của Nhà nước trong việc giải quyết những vấn đề thuộc chính sách xã hội.
Việc xây dựng xã hội mới không thể thiếu được việc giáo dục công dân tinh thần trách nhiệm cao, thái độ đúng đắn đối với lao động và đối với các giá trị xã hội khác. Mọi ngành pháp luật đều tham gia vào việc hình thành và củng cố các tính cách đối với công dân. Vai trò của luật Hiến pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ đó thể hiện ở chỗ các qui phạm của luật Hiến pháp ghi nhận các nguyên tắc quan trọng nhất của các mối quan hệ lẫn nhau giữa mọi người trong xã hội, nghĩa vụ lao động chung đối với tất cả những công dân có khả năng lao động, nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng; ghi nhận các đảm bảo để công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện nay của Nhà nước ta là củng cố hoà bình, phát triển tình hữu nghị và tăng cường khả năng phòng thủ và bảo vệ Tổ quốc. Luật Hiến pháp tham gia vào việc thực hiện nhiệm vụ đó bằng cách ghi nhận các nguyên tắc quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nhà nước ta, xác định các khuynh hướng cơ bản trong hoạt động của các lực lượng vũ trang ở nước ta.
5.2. Như phân tích ở phần trên cho thấy luật Hiến pháp bao gồm một hệ thống các qui phạm, chế định có sự thống nhất và được sắp xếp theo một trật tự nhất định có mối quan hệ hữu cơ bên trong. Nhưng nếu xem xét luật Hiến pháp ở một mức độ cao hơn - hệ thống pháp luật thì nó là một bộ phận hợp thành của hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong hệ thống đó, luật Hiến pháp đóng một vai trò đặc biệt - là ngành luật chủ đạo. Các qui phạm luật Hiến pháp hợp thành những chế định quan trọng nhất của pháp luật Việt Nam, tức là những chế định, suy cho cùng là những chế định xuất phát và quyết định đối với việc điều chỉnh pháp luật các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của các ngành luật khác. Tất cả các ngành luật khác khi điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc đối tượng của mình phải xuất phát và dựa vào các nguyên tắc do các qui phạm luật Hiến pháp qui định. Điều đó được thể hiện cụ thể như sau:
- Các qui phạm có trong Hiến pháp qui định các hình thức sở hữu ở nước ta, xác định khách thể của sở hữu đó. Các qui phạm đó là những nguyên tắc, những cơ sở xuất phát đối với các ngành luật như: luật kinh tế, luật dân sự.
- Các qui phạm luật Hiến pháp qui định vị trí, vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước trong hệ thống các cơ quan nhà nước, trách nhiệm của các cơ quan đó trước các cơ quan quyền lực nhà nước là những luận điểm xuất phát, cơ bản đối với ngành luật hành chính - ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình quản lý nhà nước.
- Các qui phạm luật Hiến pháp qui định quyền và nghĩa vụ lao động của công dân, chính sách, chế độ bảo vệ lao động; quyền hưởng chế độ thai sản là những qui định mang tính nguyên tắc xuất phát điểm đối với luật lao động.
- Các qui định của luật Hiến pháp xác định rằng công dân phải trung thành với Tổ quốc, bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi công dân, phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất; công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng; công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm, công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở... Những qui định đó là cơ sở pháp lý để luật hình sự qui định cụ thể một loạt các tội phạm cụ thể.
Như vậy, qua việc phân tích trên cho thấy luật Hiến pháp có một vị trí đặc biệt trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Việc hoàn thiện ngành luật Hiến pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung. Chính vì vậy, ngành luật Hiến pháp là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

CÂU HỎI HƯỚNC DẪN HỌC TẬP
1. Phân tích đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của luật Hiến pháp. Qua đó làm rõ đặc trưng của ngành Luật hiến pháp.
2. Phân tích, làm rõ những đặc điểm của quy phạm luật Hiến pháp, quan hệ luật liến pháp?
3. Phân tích làm rõ vai trò, vị trí của luật Hiến pháp trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
CHƯƠNG II
KHOA HỌC LUẬT HIẾN PHÁP VÀ MÔN HỌC LUẬT HIẾN PHÁP

I. KHOA HỌC LUẬT HIẾN PHÁP
1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA KHOA HỌC LUẬT HIẾN PHÁP
- Với tư cách là môn khoa học pháp lý chuyên ngành, khoa học luật Hiến pháp là hệ thống các tri thức khoa học về ngành luật Hiến pháp - ngành luật chủ đạo trong hệ thống các ngành luật Việt Nam và đối tượng điều chỉnh của nó.
Khoa học luật Hiến pháp nghiên cứu đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp, nhằm tìm ra những đặc điểm riêng và quy luật phát triển của nó; xác lập luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện các quy phạm luật Hiến pháp, các chế định luật Hiến pháp và các quan hệ luật Hiến pháp, góp phần quan trọng vào công cuộc cải cách bộ máy nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh đó, khoa học luật Hiến pháp còn nghiên cứu các quan điểm pháp lý khác nhau ở trong và ngoài nước về ngành luật Hiến pháp trong quá trình phát triển của nó; phê phán những quan điểm sai trái và "gạn đục, khơi trong, chắt lọc tinh khiết" để lựa chọn các quan điểm khoa học đúng đắn nhằm hoàn thiện ngành luật Hiến pháp ở Việt Nam.
Toàn bộ các tri thức khoa học của ngành luật Hiến pháp được tập hợp trong một hệ thống thống nhất về những vấn đề cơ bản sau đây:
- Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp; quy phạm luật Hiến pháp, chế định luật Hiến pháp và quan hệ luật Hiến pháp; vị trí, vai trò của ngành luật Hiến pháp trong hệ thống các ngành luật ở Việt Nam.
- Các nguồn của ngành luật Hiến pháp (Hiến pháp, các luật, pháp lệnh, nghị định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước), trong đó Hiến pháp là quan trọng nhất (sự ra đời, bản chất, nội dung, hiệu lực, vai trò và sự phát triển của Hiến pháp).
- Chế độ chính trị; chế độ kinh tế; các chính sách về văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, an ninh, quốc phòng, đối ngoại; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; cơ cấu tổ chức, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước.
- Các quan điểm khoa học khác nhau về ngành luật Hiến pháp và quy luật phát triển của nó.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KHOA HỌC LUẬT HIẾN PHÁP
2.1. Cơ sở phương pháp luận của khoa học luật Hiến pháp
Cơ sở phương pháp luận của khoa học nói chung, của mỗi môn khoa học nói riêng là lập trường, quan điểm xuất phát khi nghiên cứu đối tượng của mình. Cũng như các khoa học khác, trong quá trình nghiên cứu đối tượng của mình, khoa học luật Hiến pháp Việt Nam dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học và đúng đắn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật.
2.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được khoa học luật Hiến pháp vận dụng trong việc nghiên cứu đối tượng của mình.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp theo hệ thống - chức năng.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp sơ đồ.
- Phương pháp thống kê.
2.3. QUAN HỆ GIỮA KHOA HỌC LUẬT HIẾN PHÁP VỚI CÁC KHOA HỌC PHÁP LÝ KHÁC.
Khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay được phân chia thành ba nhóm cơ bản.
- Nhóm một là các khoa học pháp lý mang tính chất lý luận - lịch sử, bao gồm: lý luận nhà nước và pháp luật, lịch sử nhà nước và pháp luật (lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam và lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới), lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý trên thế giới.
- Nhóm hai là các khoa học pháp lý chuyên ngành, gồm: khoa học luật Hiến pháp, khoa học luật hành chính, khoa học luật tố tụng hành chính, khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học luật kinh tế, khoa học luật tố tụng kinh tế, khoa học luật lao động, khoa học luật dân sự, khoa học luật tố tụng dân sự, khoa học luật hôn nhân và gia đình, khoa học luật tài chính, khoa học luật ngân hàng,…
- Nhóm ba là các khoa học pháp lý ứng dụng, gồm: khoa học điều tra tội phạm, khoa học giám định pháp y, khoa học về tội phạm, khoa học thống kê tư pháp,…
Các khoa học pháp lý nêu trên quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động hỗ trợ lẫn nhau, luôn luôn tạo tiền đề, điều kiện cho nhau để cùng tồn tại và phát triển.
3. MÔN HỌC LUẬT HIẾN PHÁP
Là môn học pháp lý chính thức được đưa vào chương trình giảng dạy ở bậc đại học, luật Hiến pháp là một lượng kiến thức nhất định mà sinh viên cần tích luỹ, được bố trí, sắp xếp theo một cơ cấu phù hợp với nội dung chương trình và mục tiêu đào tạo của Bộ giáo dục và đào tạo.
Không phải tất cả tri thức của khoa học luật Hiến pháp đều được đưa vào chương trình giảng dạy đại học luật, mà chỉ một lượng tri thức cơ bản, cần thiết, vừa đủ để sinh viên nhận thức được những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất của luật Hiến pháp, làm cơ sở để họ tiếp tục học tập, nghiên cứu các môn học pháp lý chuyên ngành khác. Toàn bộ nội dung môn học luật Hiến pháp được thể hiện dưới dạng văn viết, với ngôn ngữ chuẩn xác, ngắn gọn, cụ thể, dễ hiểu và được kết cấu một cách lôgíc, khoa học, hợp lý, thống nhất. Cơ cấu đó gồm hai phần, mỗi phần gồm các chương, mỗi chương gồm các mục, mỗi mục gồm các tiểu mục (hay tiểu tiết).
- Phần thứ nhất trình bày những vấn đề cơ bản mang tính chung nhất của ngành luật Hiến pháp và khoa học luật Hiến pháp. Đối với ngành luật Hiến pháp có: khái niệm, đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, nguồn, hệ thống của ngành luật Hiến pháp; quan hệ luật Hiến pháp; quan hệ giữa ngành luật Hiến pháp với các ngành luật khác. Đối với khoa học luật Hiến pháp có: khái niệm khoa học luật Hiến pháp, đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của khoa học luật Hiến pháp, hệ thống khoa học luật Hiến pháp, quan hệ giữa khoa học luật Hiến pháp với các khoa học pháp lý khác; nguồn gốc, bản chất, sự phát triển, phân loại Hiến pháp - với tư cách là nguồn chủ yếu của ngành luật Hiến pháp.
- Phần thứ hai về những chế định cơ bản của ngành luật Hiến pháp Việt Nam, gồm: chế độ chính trị; chế độ kinh tế; văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ; bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Quốc hội; Chủ tịch nước; Chính phủ; hội đồng nhân dân; ủy ban nhân dân; toà án nhân dân; viện kiểm sát nhân dân;…
Môn học luật Hiến pháp được giảng dạy sau khi sinh viên học xong môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật và trước khi họ học các môn khác như luật hành chính, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật dân sự, luật tố tụng dân sự,… Mục đích môn học luật Hiến pháp là trên cơ sở lý luận khoa học của môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật, nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức chung khá sâu sắc và toàn diện về các chế định cơ bản của ngành luật Hiến pháp liên quan tới chế độ chính trị, chế độ kinh tế của nước nhà, đặc biệt là bản chất nhà nước, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, các chính sách của nhà nước về văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, quan hệ giữa nhà nước với cá nhân (gồm công dân Việt Nam, công dân nước ngoài và người không có quốc tịch ở Việt Nam) và với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị,… thông qua đó, không chỉ đem lại sự hiểu biết cho người học về ngành luật Hiến pháp - ngành luật chủ đạo trong hệ thống các ngành luật Việt Nam, mà còn góp phần xây dựng, củng cố lập trường chính trị tư tưởng và niềm tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa của sinh viên. Cùng với kiến thức của môn học lý luận chung về nhà nước và pháp luật, những kiến thức của môn học luật Hiến pháp tạo nên cơ sở, nền tảng vững chắc cho sinh viên tiếp tục học tập, nghiên cứu sâu hơn nữa các môn học pháp lý chuyên ngành khác. Với mục đích, ý nghĩa của môn học như vậy, đòi hỏi sinh viên vừa phải nắm vững bản chất, nội dung, hình thức, phương pháp tác động tới các quan hệ xã hội cơ bản của từng quy phạm luật Hiến pháp, chế định luật Hiến pháp và của cả ngành luật Hiến pháp, vừa cần có sự hiểu biết nhất định về đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở trong và ngoài nước để tiếp thu tốt những kiến thức mà môn học luật Hiến pháp đem lại.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Khoa học luật Hiến pháp là gì? Phân tích những vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của khoa học luật Hiến pháp.
Câu 2: Cơ sở phương pháp luận của khoa học luật Hiến pháp và ý nghĩa của nó?
Câu 3: Vì sao khoa học luật Hiến pháp phải vận dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể để nghiên cứu đối tượng của mình? Cho biết mục đích, ý nghĩa của mỗi phương pháp nghiên cứu đó.
Câu 4: Khoa học luật Hiến pháp có vị trí, vai trò như thế nào trong hệ thống các khoa học pháp lý?
Câu 5: Môn học luật Hiến pháp là gì? Mục đích, yêu cầu của môn học luật Hiến pháp? Phân tích những vấn đề thuộc nội dung môn học luật Hiến pháp?CHƯƠNG III
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIẾN PHÁP
I. KHÁI NIỆM, SỰ RA ĐỜI, VAI TRÒ VÀ BẢN CHẤT CỦA HIẾN PHÁP
1. Khái niệm Hiến pháp
Thuật ngữ “Hiến pháp” có tiếng Anh là – Constitution - bắt nguồn từ tiếng Latinh “Constitutio” với nghĩa là thiết lập, xác lập. Dưới thời kỳ Lamã cổ đại, các Hoàng đế đã ban hành “Constitutio” để quy định một số vấn đề liên quan đến hoạt động của Nhà nước. Trong tiếng Việt ta, “Hiến pháp” là từ Hán, xuất hiện từ trước Công nguyên, trong đó “Hiến” có nghĩa là khuôn mẫu, khuôn phép; “pháp” có nghĩa là mệnh lệnh, quy định. Vì vậy, Hiến pháp có nghĩa là những mệnh lệnh, quy định mang tính chất khuôn mẫu. Theo thời gian, nội hàm của thuật ngữ Hiến pháp cũng có những đổi thay nhất định.
- Dưới thời kỳ phong kiến, thuật ngữ Hiến pháp dường như không được sử dụng. Tuy vậy, ở một số nước phương tây xuất hiện “Hiến chương”, một loại văn bản pháp luật tương tự như Hiến pháp, thiết lập một số quyền cho tầng lớp phong kiến quý tộc. Ví dụ, Hiến chương tự do (Magna Charta) năm 1215 của Anh, quy định quyền của các lãnh chúa được bầu chọn đại diện tham gia cùng Nhà vua bảo vệ hòa bình và các quyền cá nhân.
- Hiến pháp chỉ xuất hiện trong thời kỳ giai cấp tư sản đấu tranh giành chính quyền chống lại Nhà nước phong kiến chuyên chế. Trong thời kỳ này, nội dung của Hiến pháp chỉ bao hàm vấn đề liên quan đến tổ chức quyền lực nhà nước.
- Sau này, cùng với sự ra đời của Hiến pháp xã hội chủ nghĩa, nội dung Hiến pháp dần được mở rộng sang các lĩnh vực khác như quyền công dân, chế độ chính trị, chế độ kinh tế-xã hội.
Ngày nay, căn cứ vào tính chất, phạm vi đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp chúng ta có thể đưa ra định nghĩa chung về Hiến pháp như sau:
“Hiến pháp là luật cơ bản của nhà nước có hiệu lực pháp lý cao nhất. Hiến pháp quy định các vấn đề liên quan đến tổ chức quyền lực nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước; cơ sở kinh tế-chính trị, văn hóa - xã hội của nhà nước; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”.
2. Sự ra đời của Hiến pháp
Sự ra đời của Hiến pháp gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại nhà nước phong kiến chuyên chế. Một câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao Hiến pháp, với tư cách là luật cơ bản của Nhà nước, chỉ xuất hiện trong xã hội tư sản?
Dưới chế độ phong kiến chuyên chế, người dân lao động phải chịu sự thống trị hà khắc của giai cấp phong kiến, họ không được hưởng các quyền tự do chính trị, còn các quyền về kinh tế-xã hội không những đã bị hạn chế lại thường xuyên bị chà đạp thô bạo. Tình trạng này diễn ra triền miên dẫn đến mẫu thuẫn giữa một bên là các tầng lớp nhân dân lao động với một bên là giai cấp phong kiến, đứng đầu là Nhà vua ngày càng trở nên gay gắt. Nhiều cuộc nổi dây của người dân lao động đã diễn ra nhưng đều gặp phải sự đàn áp khốc liệt từ phía giai cấp cầm quyền.
Vào khoảng cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16, trong lòng xã hội phong kiến xuất hiện mầm mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đại điện cho quan hệ sản xuất này là một giai cấp mới xuất hiện-giai cấp tư sản. Vị trí kinh tế của giai cấp tư sản ngày càng trở nên vững vàng. Giai cấp tư sản trở thành giai cấp có địa vị độc lập về kinh tế, nhờ vậy ý thức chính trị của giai cấp tư sản ngày càng được nâng cao.
Để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, giai cấp tư sản nhận thấy sự cần thiết phải đấu tranh xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến thay thế bằng quan hệ sản xuất và phương thức sản xuất mới. Muốn vậy, giai cấp tư sản phải giành được sự thống trị về chính trị. Tuy nhiên, vì là giai cấp chiếm thiểu số trong xã hội, do vậy để bảo đảm thắng lợi, giai cấp tư sản cần phải huy động sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Giai cấp tư sản đã phất cao ngọn cờ tự do, dân chủ, bình đẳng để tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột tham gia vào cuộc đầu tranh lật đổ chế độ phong kiến. Cũng từ cuộc đấu tranh này, “khẩu hiệu lập hiến” đã ra đời. Khẩu hiệu lập hiến bao gồm 2 nội dung chính là: 1) Yêu cầu xây dựng bản Hiến pháp làm cơ sở cho việc tổ chức quyền lực Nhà nước, nhằm hạn chế quyền hành không giới hạn của Nhà vua và 2) Bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của cá nhân.
Cùng thời kỳ này, ở Anh, Pháp và một số nước Châu Âu tư tưởng phân chia quyền lực đã trở nên phổ biến trên các diễn đàn chính trị, các cuộc tranh luận trong giới văn sĩ. Các học giả khởi xướng tư tưởng phân quyền có thể kể đến Jonh Lock, Montesquieu, J.J Rouseusor, Kant. Theo quan điểm phân quyền, sở dĩ nhà nước phong kiến chuyên chế, độc tài là do toàn bộ quyền lực Nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp đều tập trung vào tay cá nhân Nhà vua. Để bảo đảm hạn chế tiến tới thủ tiêu sự chuyên quyền này phải chia ba quyền lập pháp, hành pháp tư pháp cho 3 cơ quan khác nhau nắm giữ; giữa các cơ quan cần thiết lập cơ chế kìm chế, đối trọng nhau, qua đó quyền lực mới được cân bằng, nhờ đó mới tránh được sự lạm dụng quyền lực Nhà nước, các quyền tự do cá nhân mới được bảo đảm.
Khẩu hiệu lập hiến và tư tưởng phân quyền đã trở thành vũ khí sắc bén trong tay giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản đã sử dụng triệt để sức mạnh của thứ vũ khí này trong việc tập hợp quần chúng lao động bị áp bức làm cuộc cách mạng lật đổ giai cấp phong kiến, thiết lập một chế độ mới, chế độ lập hiến tư sản.
Bản Hiến pháp đầu tiên của nhân loại là bản Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa kỳ năm 1787. Hiến pháp 1787 là kết quả của quá trình du nhập tư tưởng lập hiến, tư tưởng phân chia quyền lực phương Tây vào Mỹ. Trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm của các tiểu bang trong việc vận dụng mô hình tổ chức Nhà nước theo Hiến pháp bất thành văn của Anh, các nhà lập hiến Hoa Kỳ đã khéo léo vận dụng tư tưởng phân quyền kết hợp với truyền thống nước Mỹ để xây dựng cho Nhà nước Mỹ bản Hiến pháp thành văn đầu tiên. Cho đến nay, qua 26 lần sửa đổi, Hiến pháp 1787 vẫn còn giữ nguyên giá trị của nó.
Ở Châu Âu, theo gương nước Mỹ, các nước Ba Lan, Pháp lần lượt ban hành Hiến pháp vào năm 1791, Hà Lan năm 1814, Bỉ 1831…
3. Vai trò của Hiến pháp
Ở các nước trên thế giới, Hiến pháp đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và Nhà nước. Vai trò của Hiến pháp thể hiện ở những điểm sau;
- Hiến pháp là cơ sở pháp lý để xây dựng hệ thống pháp luật của mỗi nước. Vì Hiến pháp là luật cơ bản, là luật của luật, bởi vậy Hiến pháp là nguồn của tất cả các ngành luật. Các ngành luật phải được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc mà Hiến pháp ghi nhận.
- Hiến pháp là cơ sở pháp lý của hệ thống chính trị. Hiến pháp quy định cơ cấu tổ chức của Nhà nước nói chung, của bộ máy nhà nước nói riêng; xác định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trung ương, các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của chúng; xác định mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và với nhân dân. Đôi khi Hiến pháp còn tạo cơ sở pháp lý cho cuộc cải cách chính trị;
- Hiến pháp đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục công dân nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng quy tắc sinh hoạt chung của cuộc sống xã hội, tôn trọng những giá trị văn hoá, vật chất, tinh thần (quyền tự do, nghĩa vụ, sở hữu, gia đình…)
4. Bản chất của Hiến pháp
Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, khi đề cập đến bản chất của pháp luật tư sản, C.Mác đã từng viết; “Chính những tư tưởng của các ông là sản phẩm của những quan hệ sản xuất và sở hữu tư sản, cũng như pháp quyền của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”(1). Hiến pháp là một loại văn bản pháp luật, vì vậy Hiến pháp cũng là ý chí của giai cấp thống trị được nâng lên thành luật. Bên cạnh đó, là một văn bản pháp luật đặc biệt, sự ra đời của Hiến pháp đánh dấu một bước chuyển đổi xã hội từ trong tay giai cấp này sang tay giai cấp khác. Chính vì vậy, Hiến pháp không chỉ mang bản chất giai cấp mà còn ghi nhận thành qủa của cuộc đấu tranh giai cấp, phản ánh mối tương quan lực lượng chính trị chính trong xã hội vào thời điểm thông qua Hiến pháp. Khi đánh giá về sự ra đời của Hiến pháp Phổ năm 1847, Ph.Ănghen khẳng định: “Bản thân Hiến pháp Phổ…đánh dấu sự sụp đổ của chế độ chuyên chế và tầng lớp quý tộc và việc giai cấp tư sản lên cầm quyền; nó mở đầu một phong trào sẽ nhanh chóng dẫn đến việc thiết lập chế độ đại nghị của giai cấp tư sản, đến việc thi hành chế độ tự do báo chí, thẩm phán độc lập, toà án bồi thẩm”. Phát triển quan điểm của C.Mác, Ănghen, V.I.Lênin khẳng định: “Thực chất Hiến pháp là ở chỗ những đạo luật cơ bản của Nhà nước nói chung và những đạo luật có liên quan đến quyền bầu cử vào các cơ quan đại nghị, đến quyền hạn của các cơ quan đại nghị đó..,v.v., thể hiện được sự so sánh thực tế các lực lượng trong cuộc đấu tranh giai cấp”. Sự phát triển Hiến pháp của nhân loại trong hơn hai thế kỷ qua đã chứng minh nhận định trên của các nhà kinh điển Mác-Lênin.
II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP TƯ SẢN
Kể từ bản Hiến pháp tư sản đầu tiên ra đời cho đến nay, nền lập hiến tư sản đã trải qua hơn 200 năm phát triển. Hơn 200 năm qua, lịch sử phát triển Hiến pháp tư sản gắn liền với những biến động trong đời sống kinh tế, chính trị của từng nhà nước cụ thể. Tuy nhiên, nhìn chung, lịch sử lập hiến tư sản có thể được chia thành 3 giai đoạn:
- Từ 1787 đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20;
- Từ đầu thế kỷ 20 đến trước chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945);
- Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay.
+ Giai đoạn đầu đánh dấu sự ra đời của Hiến pháp tư sản. Tuy nhiên, do ở một số nước, cuộc cách mạng tư sản được tiến hành không triệt để, nên nhiều Hiến pháp, đặc biệt là ở Châu Âu như Pháp 1791, Hà Lan 1814, Bỉ 1831 đã thể hiện sự nhượng bộ giữa giai cấp tư sản với giai cấp phong kiến bằng những quy định duy trì nền quân chủ trong điều kiện quyền lực được kiểm soát theo nguyên tắc tam quyền phân lập. Trong giai đoạn này, nội dung các Hiến pháp thường ngắn gọn, chủ yếu tập trung vào vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước. Đối với quyền công dân, Hiến pháp chỉ hạn chế ở mức độ ghi nhận một số quyền cơ bản của công dân trong lĩnh vực chính trị như quyền bầu cử (có điều kiện), quyền hội họp, tự do lập hội, tự do cư trú trong lĩnh vực tự do dân chủ và tự do cá nhân và quyền sở hữu tài sản trong lĩnh vực kinh tế-xã hội
+ Giai đoạn hai là giai đoạn đánh dấu sự thay đổi cơ bản trong chính sách và pháp luật. Trước áp lực mạnh mẽ của phong trào dấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, giai cấp tư sản buộc phải nhượng bộ nhằm làm dịu bớt mẫu thuẫn, đối kháng trong xã hội. Điều này được phản ánh trong các bản Hiến pháp ban hành cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Theo đó, dưới các giác độ khác nhau, những quan hệ xã hội cơ bản hợp thành chế độ xã hội bắt đầu được Hiến pháp ghi nhận. Các quyền tự do dân chủ và các quyền tự do cá nhân được mở rộng. Ngoài ra, Hiến pháp còn bổ xung thêm một số quyền về kinh tế, văn hoá, xã hội.
Trong giai đoạn này, sự ra đời của Nhà nước Xô viết và Hiến pháp Xô viết đã gây ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của nền lập hiến tư sản. Những quy định ưu việt của Hiến pháp Xô viết trong lĩnh vực quyền công dân đã buộc các nhà lập hiến tư sản đưa vào trong Hiến pháp những thay đổi theo hướng mở rộng hơn các quyền tự do dân chủ của công dân.
+ Giai đoạn thứ ba đánh dấu bước phát triển mới trong nền lập hiến tư sản. Sự ra đời của một loạt các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã làm bản đồ thế giới thay đổi về địa lý chính trị. Trên thế giới hình thành 2 phe đối lập: xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Cũng lúc đó, phong trào đấu tranh giành độc lập của các nước thuộc địa không ngừng nâng cao. Sau khi giải phóng khỏi ách thuộc địa, một loạt các nước thuộc địa Á, Phi, Mỹ La tinh như Cuba, Ăngôla, Môdămbich, Nicaraoa, Việt Nam đã chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa. Trong lòng xã hội tư sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động liên tục tổ chức các cuộc đấu tranh đòi cải thiện điều kiện làm việc, cải thiện điều kiện sinh hoạt, mở rộng các quyền tự do dân chủ. Trong bối cảnh đó, Hiến pháp tư sản buộc phải có những thay đổi nhất định cho phù hợp với điều kiện mới. Các Hiến pháp tư sản ban hành sau chiến tranh thế giới thứ hai như Hiến pháp Nhật Bản năm 1946, Italy 1947, Pháp năm 1958 Bồ Đào Nha năm 1975, Tây Ban Nha năm 1978 đã mở rộng phạm vi đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp bằng cách đưa vào Hiến pháp những quy định thiết lập nền tảng của chế độ xã hội và nhà nước. Trong lĩnh vực quyền tự do dân chủ, các Hiến pháp tư sản đã mở rộng dân chủ bằng cách thay thế chế độ bầu cử hạn chế bằng chế độ bầu cử phổ thông; mở rộng một số quyền công dân trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, đồng thời thiết lập một số bảo đảm thực hiện những quyền đó. Bên cạnh hình thức dân chủ gián tiếp truyền thống, các Hiến pháp tư sản ban hành trong giai đoạn này đều đưa vào quy định thiết lập hình thức dân chủ trực tiếp (trưng cầu ý dân). Ngoài ra, trong Hiến pháp của thời kỳ này còn xuất hiện thêm những chế định dân chủ mới như tư pháp hành chính, giám sát Hiến pháp v.v.
III. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Sự phát triển của Hiến pháp trong Nhà nước Liên bang Xô viết.
Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917 do giai cấp công nhân, nông dân Nga thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Nga, đứng đầu là V.I.Lênin đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử nhân loại, thời kỳ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hiến pháp 1918.
Tháng giêng năm 1918 Đại hội Xô Viết toàn Nga đã thông qua quyết định soạn thảo bản Hiến pháp Xô viết.
Ngày 10 tháng 7 năm 1918, Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ V đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Nga Xô viết. Hiến pháp 1918 khẳng định thành quả của Cách mạng tháng Mười, tức là ghi nhận thức tế Cách mạng. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của Hiến pháp Xô viết 1918, V.I.Lênin viết: “Hiến pháp Xô viết được xây dựng nên giống như các Xô viết được xây dựng trong thơì kỳ đấu tranh cách mạng. Đó là bản Hiến pháp đầu tiên tuyên bố chính quyền Nhà nước là của nhân dân lao động, huỷ bỏ quyền của bọn bóc lột, những kẻ chống đối xây dựng một cuộc sống mới. Đó là điểm khác biệt cơ bản của nó so với Hiến pháp của các nước khác và đó là cái bảo đảm cho thắng lợi đối với bọn tư bản”.
Hiến pháp 1918 đánh dấu một trang mới trong lịch sử lập hiến của thế giới. Kể từ thời điểm này, bên cạnh Hiến pháp của giai cấp tư sản, còn tồn tại Hiến pháp của giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Hiến pháp 1918 gồm lời nói đầu và 6 phần 17 chương và 90 điều.
Hiến pháp 1924
Ngày 30 tháng 12 năm 1922, Đại hội Xô viết nước Liên bang các nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên xô) được triệu tập. Đại hội đã thông qua Tuyên ngôn và Hiệp ước về thành lập Liên bang các nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết gồm 4 nước: Cộng hoà liên bang Nga, Cộng hoà Ucraina, Cộng hoà Xô viết Bạch Nga, Cộng hoà Ngoại Cápcadơ. Cũng tại Đại hội này, vấn đề soạn thảo bản Hiến pháp chung cho Liên Xô được thông qua. Ngày 31 tháng 1 năm 1924 Đại hội Xô viết lần thứ 2 đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Liên bang các nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên xô). Hiến pháp 1924 tập trung ghi nhận, củng cố việc thành lập Liên bang Xô viết trên cơ sở nguyên tắc liên hiệp tự nguyện của các nước Cộng hoà Xô viết; phân định thẩm quyền giữa Nhà nước liên bang và các chủ thể liên bang; quy định hệ thống các cơ quan nhà nước liên bang và các cơ quan của các chủ thể liên bang.
+ Hiến pháp 1936
Ngày 1 tháng 2 năm 1935 Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Bônsevich đã thông qua nghị quyết về sự cần thiết phải sửa đổi Hiến pháp 1924. Thực hiện nghị quyết của Đảng, ngày 6 tháng 2 năm 1935 Đại hội Xô viết Toàn Liên xô đã thông qua nghị quyết về sửa đổi Hiến pháp 1924 và thành lập Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp sửa đổi đứng đầu là đồng chí I.V.Stalin.
Ngày 1 tháng 6 năm 1936, Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Bônsevich đã xem xét và cho ý kiến về nội dung Hiến pháp sửa đổi. Ngày 11 tháng 6 năm 1936 Đoàn chủ tịch Uỷ ban chấp hành trung ương nước Liên xô đã xem xét, chỉnh lý dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần cuối và công bố để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân. Ngày 5 tháng 12 năm 1936, Đại hội Xô viết Toàn Liên xô bất thường lần thứ 8 đã thông qua bản Hiến pháp mới của nước Liên xô - Hiến pháp 1936.
Hiến pháp 1936 đã xác lập nền tảng cơ bản của chủ nghĩa xã hội: quyền lực thuộc về nhân dân; sở hữu xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất; kế hoạch hoá hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa; thủ tiêu chế độ người bóc lột người; ghi nhận các quyền tự do dân chủ và các quyền về kinh tế, xã hội của công dân.
Hiến pháp 1936 đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử lập hiến của Nhà nước Xô viết. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến lịch sử lập hiến của các nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ hai.
+ Hiến pháp 1977
Ngày 3 tháng 10 năm 1977, Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên xô đã họp Hội nghị toàn thể để xem xét kết quả cuộc lấy ý kiến đóng góp của cử tri. Ban chấp hành đã thông qua dự thảo Hiến pháp sửa đổi do Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp chỉnh lý.
Ngày 4 tháng 10 năm 1977, tại Matxcơva đã diễn ra kỳ họp bất thường Xô viết tối cao Liên xô lần thứ 7 để xem xét dự thảo Hiến pháp mới. Ngày 7 tháng 10 năm 1917, bản dự thảo Hiến pháp mới đã được 2 viện của Xô viết tối cao nhất trí thông qua.
Hiến pháp 1977 đã kế thừa và phát triển những giá trị xã hội chủ nghĩa của Hiến pháp 1936. So với các Hiến pháp trước Hiến pháp 1977 có phạm vi đối tượng điều chỉnh rộng hơn, bao hàm những vấn đề cơ bản của chế độ xã hội và Nhà nước;
Lần đầu tiên Hiến pháp 1977 xác lập nguyên tắc toàn quyền của nhân dân Xô viết. Hiến pháp khẳng định tất cả quyền lực trong nước Liên xô thuộc về nhân dân. Ngoài ra, Hiến pháp xác định Nhà nước là hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước, nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua các Xô viết và bằng sự tham gia trực tiếp vào hoạt động quản lý Nhà nước và xã hội.
Một trong những đặc điểm quan trọng của Hiến pháp 1977 là Hiến pháp đã tạo tiền đề cơ bản cho việc tiếp tục mở rộng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống chính trị nước Liên xô là tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; quy định việc mở rộng hình thức thu hút nhân dân tham gia vào việc quyết định những vấn đề quan trọng của Nhà nước và xã hội.
So với các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp 1977 mở rộng phạm vi điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Số lượng các quyền công dân trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội được mở rộng. Ngoài ra, Hiến pháp còn quy định những nguyên tắc bảo đảm việc thực hiện quyền công dân trong thực tế.
Hiến pháp 1977 tiếp tục kế thừa và phát triển chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Liên xô, tiếp tục xây dựng Nhà nước liên bang với cơ cấu đa dạng hình thức lãnh thổ của các chủ thể liên bang. Đây là một trong những biện pháp cơ bản nhất, đã được trải nghiệm qua thực tiễn, bảo đảm quyền tự quyết dân tộc và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
Cùng với sự phát triển của Hiến pháp Liên xô, Hiến pháp của các nước Cộng hoà Xô viết - chủ thể của Nhà nước liên bang cũng được tiếp tục phát triển. Sau Hiến pháp Liên xô 1977, các nước Cộng hoà Xô viết lần lượt thông qua Hiến pháp mới vào năm 1978.
2. Sự phát triển của Hiến pháp trong các Nhà nước XHCN khác.
Cùng với sự phát triển của phong trào cách mạng, nền lập hiến xã hội chủ nghĩa ở những nước nói trên cũng được hình và phát triển. Quá trình hình thành và phát triển Hiến pháp ở các nước xã hội chủ nghĩa có thể được chia thành 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ hai cho đến đầu những năm 50. Giai đoạn này đánh dấu ra đời Hiến pháp của Nhà nước dân chủ nhân dân. Có thể kể đến Hiến pháp Anbani năm 1946, Hiến pháp Nam Tư năm 1946, Hiến pháp Rumani năm 1948, Hiến pháp Hunggari năm 1949, Hiến pháp Ba Lan năm 1952, Hiến pháp Cộng hoà dân chủ Đức năm 1949.
+ Giai đoạn thứ hai là giai đoạn Hiến pháp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Một loạt nước đã thông qua Hiến pháp mới như: Anbani, Bungari, Việt nam, Cuba, Cộng hoà dân chủ Đức, Nam Tư. Một số nước khác tiếp tục duy trì Hiến pháp cũ nhưng có bổ xung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới (Hunggari, Trung quốc, Ba Lan).
3. Đặc trưng cơ bản của Hiến pháp xã hội chủ nghĩa
Hiến pháp xã hội chủ nghĩa là văn bản pháp luật cao nhất ghi nhận quyền dân chủ nhân dân.
Hiến pháp xã hội chủ nghĩa là văn bản pháp luật cao nhất thể chế hoá vai trò lãnh đạo của đảng Cộng sản
Hiến pháp xã hội chủ nghĩa là luật cơ bản của Nhà nước có hiệu lực pháp lý cao nhất.

Hiến pháp xã hội chủ nghĩa là văn bản tổ chức quyền lực Nhà nước theo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực.
IV. PHÂN LOẠI HIẾN PHÁP
1. Theo chế độ xã hội các Hiến pháp được chia thành Hiến pháp tư sản và Hiến pháp xã hội chủ nghĩa.
2. Theo hình thức các Hiến pháp được chia thành Hiến pháp thành văn và Hiến pháp không thành văn.
3. Theo thời điểm ban hành các Hiến pháp được chia thành Hiến pháp cổ điểm và Hiến pháp hiện đại.
Ví dụ, Hiến pháp Mỹ năm 1787, Na Uy năm 1814, Bỉ năm 1831, Lucxămbua năm 1868…
4. Theo thủ tục sửa đổi các Hiến pháp được chia thành Hiến pháp mềm, Hiến pháp cứng và Hiến pháp đặc biệt cứng
CHÚ THÍCH:
1. Xem.C.Mác, Ph.Ănghen. Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995, tập 4 tr. 619.
2. Xem. C.Mác, Ph. Ănghen, sdd, Tập 4, tr.57.
3. Xem. V.I.Lênin Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1977, T.17, tr. 424.
4.Xem. V.I.Lênin. Toàn tập, tiếng Nga, T. 36, tr. 534.
5. Xem.Luật Nhà nước Xô viết, Tiếng Nga, Nxb. Văn hoá pháp lý, M. 1985, tr. 59.




CHƯƠNG IV
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
NỀN LẬP HIẾN VIỆT NAM
I. Tư tưởng lập hiến trước cách mạng tháng tám năm 1945
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, có hai khuynh hướng chính trị chủ yếu trong thời gian này. Khuynh hướng thứ nhất, xây dựng nhà nước quân chủ lập hiến trong sự thừa nhận quyền bảo hộ của Chính phủ Pháp. Khuynh hướng thứ hai, chủ trương giành độc lập, tự do cho dân tộc, sau đó xây dựng Hiến pháp của nhà nước độc lập. Không có độc lập, tự do thì không thể có Hiến pháp thực sự.
Đầu năm 1919, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã gửi tám điểm yêu sách của nhân dân An Nam cho Hội nghị Vessailles của các nước đồng minh trong đó đã thể hiện rõ tư tưởng lập hiến của người. Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc đã dịch và diễn thành lời ca bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" để tuyên truyền trong đồng bào Việt kiều sống trên đất Pháp. Trong tám điều yêu sách, đáng lưu ý là điều thứ 7 - Đó là yêu cầu lập hiến, lập pháp cho nhân dân Việt Nam:
"Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có Thần linh pháp quyền"
Năm 1926, Nguyễn Ái Quốc lại cho công bố một bản yêu sách nữa mang đầu đề: "Lời hô hoán cùng Vạn quốc hội". Bản yêu sách đòi trả quyền tự quyết cho nhân dân Việt Nam và đòi quyền độc lập hoàn toàn và tức khắc ngay cho dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách tuyên bố: "Nếu được độc lập ngay thì Việt Nam sẽ tình nguyện trả (dần từng năm) một phần nợ mà nước Pháp đã vay Mỹ và Anh trong hồi Âu chiến, Việt Nam sẽ ký hòa ước liên minh với nước Pháp và sẽ xếp đặt một nền Hiến pháp theo lý tưởng dân quyền"(1) .
II. Hiến pháp 1946
1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1946
Sau khi đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" lịch sử, ngày 2/9/1945 khai sinh nước Việt nam dân chủ cộng hòa, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 3/9/1945 Hồ Chủ Tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ; một trong những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng Hiến pháp. Về vấn đề Hiến pháp, Người viết: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ"(2).
Ngày 20/9/1945, Chính phủ lâm thời ra Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11/1945, Ban dự thảo đã hoàn thành công việc và bản dự thảo được công bố cho toàn dân thảo luận. Hàng triệu người Việt Nam hăng hái tham gia đóng góp ý kiến cho bản dự thảo Hiến pháp chứa đựng mơ ước bao đời của họ về độc lập và tự do.
Ngày 2/3/1946, trên cơ sở Ban dự thảo Hiến pháp của Chính phủ, Quốc hội (khóa I, kỳ họp thứ nhất) đã thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 11 người đại biểu của nhiều tổ chức, đảng phái khác nhau do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Ban dự thảo có nhiệm vụ tổng kết các ý kiến đóng góp của nhân dân và xây dựng Bản dự thảo cuối cùng để đưa ra Quốc hội xem xét và thông qua. Ngày 28/10/1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội, Kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I đã khai mạc. Ngày 9/11/1946, sau hơn mười ngày làm việc khẩn trương, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta với 240 phiếu thuận, 2 phiếu chống.
Ngày 19/12/1946, mười ngày sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Do hoàn cảnh cảnh chiến tranh mà Hiến pháp 1946 không được chính thức công bố, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu nghị viện nhân dân không có điều kiện thực hiện. Tuy nhiên, Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Ban thường vụ Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung của Hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động của nhà nước.
2. Nội dung của Hiến pháp 1946
Hiến pháp năm 1946 bao gồm lời nói đầu, 7 chương và 70 điều.
Lời nói đầu xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Lời nói đầu còn xác định ba nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp. Đó là những nguyên tắc sau đây:
- Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo;
- Đảm bảo các quyền lợi dân chủ;
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Toàn bộ bảy chương của Hiến pháp đều được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản đã nói trên. Chính ba nguyên tắc này đã thể hiện ba đặc điểm cơ bản của Hiến pháp 1946.
Xây dựng trên nguyên tắc đoàn kết toàn dân, Điều 1 của Hiến pháp viết: "Nước Việt nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Đây là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của Nhà nước Việt Nam. Lần đầu tiên ở nước ta cũng như ở Đông Nam á, một Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, hình thức chính thể là hình thức cộng hòa. Đó là bước ngoặt lớn trong sự phát triển của tư tưởng dân chủ. Quy định trên đây cũng đề cao tính dân tộc của nhà nước.
Tuân thủ nguyên tắc "đảm bảo các quyền tự do dân chủ", Hiến pháp 1946 rất chú trọng đến chế định công dân. Điều đó thể hiện ở chỗ Hiến pháp có 7 chương thì Chương II dành cho chế định công dân. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt nam được đảm bảo các quyền tự do, dân chủ. Điều 10 Hiến pháp quy định: "Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài". Phải nói rằng, Hiến pháp 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ rộng rãi. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt nam quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được pháp luật ghi nhận (Điều 6, 7). Và cũng lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, phụ nữ được ngang quyền với nam giới trong mọi phương diện. Với bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, công dân Việt Nam được hưởng quyền bầu cử, nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình bầu ra khi họ không tỏ ra xứng đáng với danh hiệu đó.
Dựa trên nguyên tắc thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân, hình thức nhà nước theo Hiến pháp 1946 có nhiều nét độc đáo đáng chú ý. Theo quy định của Hiến pháp, Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu Nhà nước, vừa là người đứng đầu Chính phủ. Mặt khác, Chủ tịch nước có quyền phủ quyết. Quyền đó thể hiện ở Điều 31 và 54. Điều 31 Hiến pháp quy định: "Những luật đã được Nghị viện biểu quyết, Chủ tịch nước phải ban bố chậm nhất là mười hôm sau khi nhận được thông tư. Nhưng trong thời hạn ấy, Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại, nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch phải ban bố". Còn ở Điều 54, Hiến pháp quy định: "Trong hạn 24 giờ sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo luận lại". Như vậy, hình thức chính thể của Nhà nước ta theo Hiến pháp 1946 phần nào giống hình thức Cộng hòa - Tổng thống. Nhưng Chủ tịch của nước ta theo Hiến pháp 1946 không phải do cử tri trực tiếp bầu ra mà do Nghị viện nhân dân bầu ra. Mặt khác, Chủ tịch nước chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Thủ tướng chọn Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Chính phủ chịu sự kiểm soát của Nghị viện. Bộ trưởng nào không được Nghị viện tín nhiệm thì phải từ chức. Những quy định trên cho ta thấy hình thức chính thể của Nhà nước ta theo Hiến pháp 1946 là hình thức kết hợp giữa Cộng hòa Tổng thống và Cộng hòa Nghị viện. Những nét độc đáo của nó còn thể hiện ở chỗ nó không hề giống hoàn toàn hình thức chính thể của những nước cùng có hình thức pha trộn như Pháp, Phần Lan, Bồ Đào Nha...
Qua những nét phân tích ở trên chúng ta thấy rằng, Hiến pháp đầu tiên của nước ta - Hiến pháp 1946 là một bản hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém bất kỳ một bản Hiến pháp nào trên thế giới.
Về kỹ thuật lập pháp, Hiến pháp 1946 là một bản Hiến pháp cô đúc, khúc chiết, mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người. Nó là một bản Hiến pháp mẫu mực trên nhiều phương diện.
III. Hiến pháp 1959
1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1959
Tính đến thời điểm năm 1959, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra đời và phát triển được mười bốn năm. Đó là một khoảng thời gian có nhiều sự kiện chính trị quan trọng, làm thay đổi tình hình chính trị, xã hội và kinh tế của đất nước.
Ngay sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp 1946, thực dân Pháp lại gây ra chiến tranh để xâm lược nước ta một lần nữa. Nhân dân ta lại bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ. Với chiến thắng Điện Biên Phủ và Hội nghị Giơnevơ thắng lợi, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước còn tạm thời chia làm hai miền. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới này là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Trong ba năm (1955 - 1957), ở miền Bắc chúng ta đã hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế. Năm 1958, chúng ta bắt đầu thực hiện kế hoạch kinh tế ba năm nhằm phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội. Về kinh tế và văn hóa, chúng ta đã có những tiến bộ lớn. Đi đôi với những thắng lợi đó, quan hệ giai cấp trong xã hội miền Bắc đã thay đổi. Giai cấp địa chủ phong kiến đã bị đánh đổ. Liên minh giai cấp công nhân và nông nhân ngày càng được củng cố và vững mạnh.
Hiến pháp 1946 đã hoàn thành sứ mệnh của nó nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần được bổ sung và thay đổi. Vì vậy, trong kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp 1946 và thành lập Ban dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Sau khi làm xong Bản dự thảo đầu tiên, tháng 7 năm 1958, Bản dự thảo được đưa ra thảo luận trong các cán bộ trung cấp và cao cấp thuộc các cơ quan Quân, Dân, Chính, Đảng. Sau đợt thảo luận này Bản dự thảo đã được chỉnh lý lại và ngày 1/4/1959 Dự thảo được công bố để toàn dân thảo luận và đóng góp ý kiến xây dựng. Cuộc thảo luận này kéo dài trong bốn tháng với sự tham gia sôi nổi tích cực của các tầng lớp nhân dân lao động(1). Ngày 31/12/1959, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 1/1/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp.
2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1959
Hiến pháp 1959 gồm có lời nói đầu và 112 điều, chia làm 10 chương.
Lời nói đầu khẳng định nước Việt Nam là một nước thống nhất từ Lạng sơn đến Cà Mau, khẳng định những truyền thống quý báu của dân tộc Việt nam. Lời nói đầu ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng lao động Việt Nam (nay là Đảng cộng sản Việt Nam), đồng thời xác định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Chương I - Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, gồm 8 điều quy định các vấn đề cơ bản sau đây:
- Hình thức chính thể của Nhà nước là cộng hòa dân chủ (Điều 2). Hiến pháp xác định tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 4).
- Quy định Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan nhà nước khác thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 4).
- Cũng như Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 khẳng định đất nước Việt Nam là một khối thống nhất không thể chia cắt (Điều 1).
- Quy định nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hành vi khinh miệt, áp bức, chia rẽ các dân tộc (Điều 3).
- Quy định các nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là: Phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín (Điều 5).
- Xác định nguyên tắc tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân (Điều 6).
Chương II - Chế độ kinh tế và xã hội, gồm 13 điều quy định những vấn đề liên quan đến nền tảng kinh tế - xã hội của Nhà nước:
- Xác định đường lối kinh tế của Nhà nước ta trong giai đoạn này là biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Quy định mục đích cơ bản của chính sách kinh tế của Nhà nước là không ngừng phát triển sức sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân (Điều 9).
- Quy định các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội là: Sở hữu nhà nước (tức là của toàn dân); sở hữu của hợp tác xã (tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động); sở hữu của người lao động riêng lẻ và sở hữu của nhà tư sản dân tộc (Điều 11).
- Xác định kinh tế quốc doanh thuộc hình thức sở hữu của toàn dân giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được nhà nước đảm bảo phát triển ưu tiên. Các hầm mỏ, sông ngòi, những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định của nhà nước đều thuộc sở hữu của toàn dân (Điều 12).
- Quy định việc nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và tư liệu sản xuất khác của nông dân (Điều 14); bảo hộ quyền tư hữu về tư liệu sản xuất của người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác (Điều 15); bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của nhà tư sản dân tộc (Điều 16); bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các vật dụng riêng khác (Điều 18); bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân (Điều 19). So với Hiến pháp 1946 thì chương II là một chương hoàn toàn mới. Chương này được xây dựng theo mô hình của Hiến pháp các nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, ngoài việc quy định kinh tế quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân, Hiến pháp còn quy định Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất.
Chương III - Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 21 điều (từ Điều 22 đến Điều 42). Theo Hiến pháp, công dân Việt Nam có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau đây:
- Các quyền về chính trị và tự do dân chủ như: Quyền bầu cử và ứng cử (Điều 23); quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 22); quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 25); quyền khiếu nại, tố cáo về những hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên, cơ quan nhà nước.
- Các quyền về dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội như: Quyền làm việc (Điều 30); quyền nghỉ ngơi (Điều 31); quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động (Điều 32); quyền học tập (Điều 33); quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hóa khác (Điều 34); quyền tự do tín ngưỡng (Điều 26).
- Các quyền về tự do cá nhân như : Quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 27); không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của Tòa án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân; quyền bất khả xâm phạm về nhà ở; quyền bí mật thư tín; quyền tự do cư trú và tự do đi lại.
- Các nghĩa vụ cơ bản của công dân theo quy định của Hiến pháp bao gồm: Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng là những quy tắc sinh hoạt xã hội (Điều 39); nghĩa vụ tôn trọng và bảo vê tài sản công cộng (Điều 40); nghĩa vụ đóng thuế theo quy định của pháp luật (Điều 41); nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc (Điều 42). So với Hiến pháp 1946, chế định quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp 1959 là một bước phát triển mới.
Ngoài những quyền và nghĩa vụ mà Hiến pháp 1946 đã ghi nhận, Hiến pháp 1959 còn quy định thêm những quyền và nghĩa vụ mới mà trong Hiến pháp 1946 chưa được thể hiện. Ví dụ: Quyền của người lao động được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động, quyền tự do nghiên cứu khoa học và sáng tác văn học nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hóa khác, quyền khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên, cơ quan nhà nước, nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng.
Chương IV - Quốc hội, bao gồm 18 điều quy định các vấn đề liên quan đến chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. So với nhiệm kỳ của Nghị viện theo Hiến pháp 1946 thì nhiệm kỳ của Quốc hội dài hơn (nhiệm kỳ của Nghị viện là 3 năm, còn nhiệm kỳ Quốc hội là 4 năm). Hiến pháp 1959 quy định quyền hạn của Quốc hội một cách cụ thể hơn.
Chương V - Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, bao gồm 10 điều (từ Điều 61 đến Điều 70). So với Hiến pháp 1946 thì đây là một chương mới. Theo Hiến pháp 1959 Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước không nằm trong thành phần của Chính phủ. Đứng đầu Chính phủ lúc này là Thủ tướng Chính phủ, còn Chủ tịch nước chỉ là người đứng đầu nhà nước về mặt đối nội cũng như đối ngoại. Vì vậy, chế định Chủ tịch nước được quy định thành một chương riêng. Theo Hiến pháp 1959 Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra. Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ 35 tuổi trở lên có quyền ứng cử chức vụ Chủ tịch nước. Như vậy, khác với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 quy định tuổi tối thiểu để có thể ứng cử chức vụ Chủ tịch nước là 35 còn Hiến pháp 1946 không quy định cụ thể, mặt khác theo Hiến pháp 1946 Chủ tịch nước phải được chọn trong Nghị viện nhân dân tức là trong số các Nghị sĩ, còn Hiến pháp 1959 không đòi hỏi ứng cử viên phải là đại biểu Quốc hội.
So với Hiến pháp 1946, quyền hạn của Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1959 hẹp hơn vì theo Hiến pháp 1946 Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là người đứng đầu Chính phủ. Còn theo Hiến pháp 1959, chức năng của người đứng đầu Chính phủ đã chuyển sang cho Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, theo Hiến pháp 1959 quyền hạn của Chủ tịch nước vẫn rất lớn. Ví dụ: Chủ tịch nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng (Điều 65). Chủ tịch nước khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ tọa Hội nghị chính trị đặc biệt (Điều 67). Chủ tịch nước khi xét thấy cần thiết có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ.
Chương VI - Hội đồng Chính phủ, bao gồm 7 điều (từ Điều 71 đến Điều 77). Theo quy định tại Điều 71 Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Quy định này thể hiện rõ nguyên tắc quyền lực nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội - Cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân. Quy định này cũng cho ta thấy rằng, Hội đồng Chính phủ theo Hiến pháp 1959 được tổ chức hoàn toàn theo mô hình Chính phủ của các nước xã hội chủ nghĩa. Về thành phần của Hội đồng Chính phủ theo quy định tại Điều 72 khác cơ bản so với trước đây là không có Chủ tịch, Phó chủ tịch nước và không có các Thứ trưởng.
Chương VII - Hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính địa phương các cấp, bao gồm 14 điều (từ Điều 78 đến Điều 91). Trong chương này Hiến pháp xác định các đơn vị hành chính ở nước ta là: Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã; xã, thị trấn. Ngoài ra còn có khu tự trị (Tây Bắc và Việt Bắc). Các khu tự trị này tồn tại đến tháng 12/1975.
Như vậy, theo Hiến pháp 1959, cấp bộ (Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ) được bãi bỏ. Khác với Hiến pháp 1946 chỉ có cấp tỉnh và cấp xã mới có Hội đồng nhân dân, Hiến pháp 1959 quy định tất cả các cấp tỉnh, huyện, xã đều có Hội đồng nhân dân. Ngoài ra, Hiến pháp còn ghi rõ Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Theo quy định của Hiến pháp, ủy ban hành chính được thành lập ở tất cả các cấp tỉnh, huyện, xã. ủy ban hành chính các cấp là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân địa phương, là cơ quan hành chính của Nhà nước ở địa phương.
Chương VIII- Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, gồm 15 điều (từ Điều 97 đến Điều 111). So với Hiến pháp 1946, chương này cũng có nhiều thay đổi. Theo Hiến pháp 1959, hệ thống tòa án ở nước ta bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dận huyện và Tòa án quân sự. Ngoài ra, trong trường hợp xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt. Hệ thống toà án địa phương được tổ chức theo các đơn vị hành chính lãnh thổ cấp tỉnh, cấp huyện. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vừa xét xử phúc thẩm các bản án do Tòa án huyện xét xử sơ thẩm vừa xét xử sơ thẩm các bản án thuộc thẩm quyền của chúng. Chế độ bổ nhiệm thẩm phán bị bãi bỏ và thực hiện chế độ thẩm phán bầu. Việc xét xử ở các tòa án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán.
Theo mô hình tổ chức bộ máy nhà nước của các nước xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp 1959 đã quy định việc thành lập hệ thống viện kiểm sát nhân dân để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật và thực hiện quyền công tố. Hệ thống viện kiểm sát bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện kiểm sát nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã và Viện kiểm sát quân sự.
Viện kiểm sát nhân dân tổ chức theo chế độ thủ trưởng trực thuộc một chiều. Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo của viện kiểm sát cấp trên và tất cả đều đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Việt kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu ra, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội. Trong thời gian Quốc hội không họp thì báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước UBTV Quốc hội.
Chương IX quy định về Quốc kỳ, Quốc huy và Thủ đô.
Chương X quy định về sửa đổi Hiến pháp.
Theo quy định của Hiến pháp chỉ có Quốc hội mới có quyền sử đổi Hiến pháp với điều kiện phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Tóm lại, Hiến pháp 1959 là bản hiến pháp được xây dựng theo mô hình hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Nó là bản hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của nước ta.
IV. Hiến pháp 1980
1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1980.
Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc ta. Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành trong phạm vi cả nước. Nước ta đã hoàn toàn độc lập, tự do là điều kiện thuận lợi để thống nhất hai miền Nam - Bắc, đưa cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trước tình hình đó, tháng 9/1975, Hội nghị lần thứ 24 của Ban chấp hành trung ương Đảng lao động Việt Nam đã xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu lúc này là phải hoàn thành việc thống nhất nước nhà. Nghị quyết của Hội nghị đã nhấn mạnh: “Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết bậc nhất của đồng bào cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam...”. Hội nghị lần thứ 24 của Ban chấp hành trung ương Đảng lao động Việt Nam đã quyết định triệu tập Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất tổ quốc. Hội nghị đã nhất trí quyết định tổ chức tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội chung cho cả nước. Cuộc tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu trực tiếp và bỏ phiếu kín đã diễn ra ngày 25/4/1976 với sự tham gia của hơn 23 triệu cử tri, chiếm gần 99% tổng số cử tri. Tổng số đại biểu Quốc hội đã bầu là 492 trong đó 249 đại biểu miền Bắc và 243 đại biểu miền Nam(1) Tổng số đại biểu quốc hội được tính theo tỷ lệ: 1 đại biểu/1000 cử tri(2) .
Quốc hội chung của cả nước đã bắt đầu kỳ họp đầu tiên của mình vào ngày 25/6/1976 và kéo dài đến ngày 3/7/1976. Ngày 2/7/1976 Quốc hội đã thông qua các nghị quyết quan trọng. Quốc hội đã quyết định trong khi chưa có hiến pháp mới, tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta hoạt động dựa trên cơ sở Hiến pháp 1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đồng thời Quốc hội khóa VI đã ra Nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp 1959 và thành lập ủy ban dự thảo hiến pháp gồm 36 người do đồng chí Trường Chinh - Chủ tịch ủy ban thường vụ Quốc hội làm Chủ tịch. Sau một năm rưỡi làm việc khẩn trương, ủy ban đã hoàn thành dự thảo. Bản Dự thảo được đưa ra cho toàn dân thảo luận. Tháng 9/1980, Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã họp kỳ đặc biệt để xem xét và cho ý kiến bổ sung, sửa chữa Dự thảo trước khi trình Quốc hội thảo luận, thông qua. Sau một thời gian thảo luận, Quốc hội khóa VI tại kỳ họp thứ 7 ngày 18/12/1980 đã nhất trí thông qua Hiến pháp.
2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1980
Hiến pháp 1980 bao gồm lời nói đầu, 147 điều chia làm 12 chương.
Lời nói đầu của Hiến pháp khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, ghi nhận những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân Việt Nam đã giành được trong Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai. Lời nói đầu còn xác định những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đề ra và nêu lên những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp 1980 đề cập.
Chương I của Hiến pháp quy định chế độ chính trị của Nhà nước ta. Chương này có 14 điều (từ Điều 1 đến Điều 14) bao gồm các vấn đề cơ bản sau đây:
- Xác định bản chất giai cấp của Nhà nước ta là nhà nước chuyên chính vô sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân tiến hành xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản (Điều 2).
- Khác với Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 quy định các quyền dân tộc cơ bản bao gồm 4 yếu tố: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đây là một phạm trù pháp luật quốc tế do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng dựa trên những khái niệm chung về quyền tự nhiên của con người(1). Phạm trù quyền dân tộc cơ bản được thế giới thừa nhận một cách rộng rãi và trở thành một trong những phạm trù quan trọng của luật quốc tế hiện đại, một đóng góp lớn của Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ các quyền cơ bản của các dân tộc.
- Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp 1980 thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với Nhà nước và xã hội vào một điều của Hiến pháp (Điều 4).
Sự thể chế hóa này thể hiện sự thừa nhận chính thức của Nhà nước về vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Hiến pháp cũng quy định: Các tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.
- Hiến pháp 1980 còn xác định vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội quan trọng khác như Mặt trận tổ quốc Việt Nam (Điều 9), Tổng công đoàn Việt Nam (Điều 10). Đây cũng là lần đầu tiên vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội này được quy định trong hiến pháp.
- Với Hiến pháp 1980, quan điểm về quyền làm chủ tập thể của Đảng ta đã được thể chế hóa (tại Điều 3 Hiến pháp).
- Cũng như Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 tiếp tục khẳng định chính sách đoàn kết dân tộc của Nhà nước ta. Điều 5 của Hiến pháp quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Nhà nước bảo vệ, tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị, chia rẽ dân tộc”.
- Hiến pháp 1980 kế tục tư tưởng của Hiến pháp 1959 nhấn mạnh quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Cũng như Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 quy định Quốc hội, hội đồng nhân dân cũng như các cơ quan nhà nước khác đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Ngoài nguyên tắc tập trung dân chủ, Hiến pháp còn quy định nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là một quy định hoàn toàn mới so với Hiến pháp 1959. Tại Điều 12 Hiến pháp quy định: “Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Chương II - Chế độ kinh tế, gồm 22 điều (từ Điều 15 đến Điều 36). Giống như Hiến pháp 1959, chương này quy định những vấn đề cơ bản trong lĩnh vực kinh tế như mục đích của chính sách kinh tế, các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các nguyên tắc lãnh đạo nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, Hiến pháp 1980 có nhiều điểm khác với Hiến pháp 1959. Theo Hiến pháp 1959, đất đai có thể thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, còn Hiến pháp 1980 quốc hữu hóa toàn bộ đất đai (Điều 19). Theo Hiến pháp 1959, các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là: Sở hữu nhà nước (sở hữu toàn dân), sở hữu tập thể (sở hữu tập thể của nhân dân lao động), sở hữu của người lao động riêng lẻ và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc (Điều 11). Còn theo Điều 18 Hiến pháp 1980 thì Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: Thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Chương III - Văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật, bao gồm 13 điều (từ Điều 37 đến Điều 49). Đây là một chương hoàn toàn mới so với Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Chương này quy định mục tiêu của cách mạng tư tưởng và văn hóa là xây dựng nền văn hóa mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân, xây dựng con người mới có ý thức làm chủ tập thể, yêu lao động, quý trọng của công, có văn hóa, có kiến thức khoa học kỹ thuật, có sức khỏe, yêu nước xã hội chủ nghĩa và có tinh thần quốc tế vô sản (Điều 37). Theo quy định của Hiến pháp, chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng chỉ đạo sự phát triển của xã hội Việt Nam (Điều 38). Nhà nước ta chủ trương bảo vệ và phát triển những giá trị văn hóa và tinh thần của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, chống các tư tưởng phong kiến lạc hậu, tư sản phản động và bài trừ mê tín dị đoan. Ngoài những quy định trên, Chương III còn xác định chính sách về khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật và các công tác thông tin báo chí, xuất bản, thư viện, phát thanh, truyền hình...
Chương IV - Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bao gồm 3 điều (từ Điều 50 đến Điều 52). Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, vấn đề bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa được xây dựng thành một chương riêng trong hiến pháp. Điều này xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề phòng thủ đất nước. Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước. Bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ tồn tại song song trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, có sự gắn bó và tương hỗ lẫn nhau. Tại Điều 50 Hiến pháp xác định đường lối quốc phòng của Nhà nước là xây dựng một nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại trên cơ sở kết hợp xây dựng tổ quốc với bảo vệ tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tại Điều 51, Hiến pháp xác định nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân. Điều cuối cùng trong chương này là thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chăm lo công nghiệp quốc phòng, huy động nhân lực, vật lực nhằm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước. Nhà nước ta xây dựng nền quốc phòng toàn dân vì vậy Hiến pháp đã quy định: “Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định” (Điều 52).
Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 32 Điều (từ Điều 53 đến Điều 81). Kế tục và phát triển Hiến pháp 1946, 1959, Hiến pháp 1980 xác định thêm một số quyền và nghĩa vụ mới phù hợp với giai đoạn mới của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. So với Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 đã xác định thêm một số quyền mới của công dân như quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội (Điều 56); quyền được khám và chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 61), quyền có nhà ở (Điều 62), quyền được học tập không phải trả tiền (Điều 60), quyền của các xã viên hợp tác xã được phụ cấp sinh đẻ (Điều 63). Hiến pháp cũng xác định thêm một số nghĩa vụ mới của công dân: Công dân phải trung thành với tổ quốc (Điều 76); ngoài bổn phận làm nghĩa vụ quân sự, công dân còn phải tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân; ngoài nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, tôn trọng những quy tắc sinh hoạt xã hội, công dân còn phải bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, giữ gìn bí mật nhà nước; ngoài nghĩa vụ đóng thuế, công dân còn phải tham gia lao động công ích. Tuy nhiên, một số quyền mới quy định trong Hiến pháp 1980 không phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước nên không có điều kiện vật chất đảm bảo thực hiện.
Mặc dù có những hạn chế nói trên, song chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp 1980 vẫn là một bước phát triển mới, phong phú hơn, cụ thể hơn, rõ nét hơn.
Chương VI - Quốc hội, bao gồm 16 điều (từ Điều 82 đến Điều 97). Cũng như quy định của Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 xác định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế và văn hóa - xã hội, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, Quốc hội thành lập các cơ quan nhà nước tối cao như bầu ra chủ tịch, các phó chủ tịch Hội đồng nhà nước, chủ tịch, các phó chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng bộ trưởng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước... (Điều 82, Điều 83). Như vậy về cơ bản, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội không thay đổi, nhưng cơ cấu tổ chức của Quốc hội có sự thay đổi lớn. Nếu theo Hiến pháp 1959 cơ quan thường trực của Quốc hội là ủy ban thường vụ Quốc hội thì theo Hiến pháp 1980 cơ quan thường trực của Quốc hội là Hội đồng nhà nước. Nhưng Hội đồng nhà nước theo Hiến pháp 1980 còn là chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp 1959, khi Quốc hội họp thì bầu Chủ tịch đoàn để điều khiển cuộc họp (Điều 47). Còn theo Hiến pháp 1980 thì Quốc hội bầu ra chủ tịch và các phó chủ tịch Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội, bảo đảm việc thi hành nội quy của Quốc hội, giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội, điều hòa phối hợp hoạt động giữa các ủy ban của Quốc hội, chứng thực luật và nghị quyết đã được Quốc hội thông qua; thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội.
Như vậy, Chủ tịch Quốc hội, Phó chủ tịch Quốc hội là một thiết chế mới, một cách tổ chức mới của Quốc hội mà trước đó lịch sử lập hiến nước ta chưa biết đến.
Chương VII - Hội đồng nhà nước, bao gồm 6 điều (từ Điều 98 đến Điều 103). Đây là một chương mới so với Hiến pháp 1959. Theo quy định của Điều 98, Hội đồng nhà nước là cơ quan cao nhất, hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, Hội đồng nhà nước vừa thực hiện chức năng của ủy ban thường vụ Quốc hội vừa thực hiện chức năng của Chủ tịch nước. Vì vậy, thẩm quyền của Hội đồng nhà nước tương đương với thẩm quyền của ủy ban thường vụ Quốc hội và thẩm quyền của Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1959. Hội đồng nhà nước có những nhiệm vụ và quyền hạn rất lớn, được quy định tại Điều 100 Hiến pháp 1980.
Trong số các quyền của Hội đồng nhà nước thì việc quyết định thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, các ủy ban nhà nước; cử và bãi miễn các phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, các bộ trưởng, các chủ nhiệm ủy ban nhà nước; việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược, Hội đồng nhà nước phải trình Quốc hội phê chuẩn trong kỳ họp gần nhất của Quốc hội. Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn đã được xác định, tại khoản 21 còn ghi nhận: Quốc hội có thể giao cho Hội đồng nhà nước những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết. Thể chế chủ tịch nước tập thể trong thực tiễn đã thể hiện những ưu điểm và nhược điểm của nó. Ưu điểm của thể chế này là các vấn đề quan trọng của đất nước đều được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số, như vậy thường vững vàng hơn so với một người quyết định. Nhược điểm của nó là do mọi vấn đề phải bàn bạc tập thể nên công việc nhiều khi chậm chạp, trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng nhà nước chưa thật rõ ràng. Giữa hai kỳ họp của Quốc hội thì quyền hạn của Hội đồng nhà nước rất lớn nhưng trong kỳ họp Quốc hội thì thẩm quyền của Hội đồng nhà nước lại hầu như không được thể hiện. Mặt khác, việc Hội đồng nhà nước được quyền quyết định một số quyền hạn thuộc thẩm quyền Quốc hội đã làm nảy sinh vấn đề liên quan đến yêu cầu tập trung quyền lực, nhất là quyền lập pháp vào Quốc hội. Theo quy định của Hiến pháp thì chức năng, nhiệm vụ giao cho Hội đồng nhà nước rất lớn nhưng cơ cấu của thành viên Hội đồng nhà nước hầu hết gồm những người kiêm nhiệm(1).
Chương VIII - Hội đồng bộ trưởng, bao gồm 9 điều (từ Điều 104 đến Điều 112). Theo quy định tại Điều 104 của Hiến pháp, Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vị trí như Hội đồng Chính phủ trong Hiến pháp 1959. Tuy nhiên, Hội đồng bộ trưởng về tính chất không hoàn toàn giống như Hội đồng chính phủ. Hội đồng Chính phủ theo quy định của Hiến pháp 1959 là "cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa".
Khác với Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 quy định Hội đồng bộ trưởng "là cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất". Với quy định này chúng ta thấy tính độc lập của Chính phủ trong quan hệ với Quốc hội bị hạn chế.
Về nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng bộ trưởng, Hiến pháp 1980 quy định các vấn đề cơ bản sau đây:
- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; trình dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Hội đồng nhà nước; lập dự án kế hoạch nhà nước và dự án ngân sách nhà nước trình Quốc hội; tổ chức thực hiện kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước; thống nhất quản lý việc cải tạo, xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân, việc xây dựng và phát triển văn hóa, giáo dục khoa học, kỹ thuật; xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương đến cơ sở; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ và các cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng; bảo đảm cho Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương; lãnh đạo ủy ban nhân dân các cấp; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư không thích đáng của các bộ và các cơ quan khác thuộc hội đồng bộ trưởng; đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích đáng của hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương, đồng thời đề nghị Hội đồng nhà nước sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị không thích đáng của ủy ban nhân dân các cấp; quyết định việc phân vạch địa giới của các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh...Về cơ bản, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bộ trưởng theo Hiến pháp 1980 giống với nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng chính phủ theo Hiến pháp 1959. Tuy nhiên, Hiến pháp 1980 bổ sung một số quyền hạn, nhiệm vụ mới phù hợp với nhu cầu của xã hội như tổ chức và lãnh đạo công tác trọng tài nhà nước về kinh tế; tổ chức và lãnh đạo công tác bảo hiểm nhà nước v.v.. So với các Hiến pháp trước thì chế định về Hội đồng bộ trưởng còn có một điểm mới nữa là quy định về trách nhiệm tập thể của các thành viên Hội đồng bộ trưởng trước Quốc hội và Hội đồng nhà nước.
Chương IX - Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, bao gồm 14 điều (từ Điều 113 đến Điều 126). Tại chương này Hiến pháp quy định về phân cấp hành chính ở nước ta, xác định vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân.
Về phân cấp đơn vị hành chính, Hiến pháp 1980 quy định nước ta có ba cấp hành chính. Đó là tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương; huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã; xã, phường, thị trấn. Khác với Hiến pháp 1959 khu tự trị được bãi bỏ (theo Nghị quyết kỳ họp Quốc hội khóa V ngày 27/12/1975) nhưng lập thêm ra đơn vị hành chính đặc khu - tương đương tỉnh, đơn vị phường ở những thành phố, thị xã tương đương với xã. ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân.
Những quy định của Hiến pháp 1980 về Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân được cụ thể hóa bởi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân 1983. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân 1989 đưa thêm vào cơ cấu hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã một cơ quan mới là thường trực hội đồng nhân dân. Nhiệm kỳ hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp cũng được nâng lên từ 3 năm lên 5 năm.
Về tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân về cơ bản giống Hiến pháp 1959.
Chương X - Tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân, bao gồm 15 điều (từ Điều 127 đến Điều 141). Cũng giống như Hiến pháp 1959 chương này quy định về nhiệm vụ chung của tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân, về hệ thống các cơ quan tòa án, chức năng của các cơ quan tòa án, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án. Có thể khẳng định rằng các quy định của Hiến pháp 1980 trong chương này hoàn toàn giống với Hiến pháp 1959.
Chương XI của Hiến pháp quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô.
Chương XII quy định về hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp. Điều 146 của Hiến pháp quy định Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với hiến pháp. Về thủ tục sửa đổi hiến pháp hoàn toàn giống Hiến pháp 1959.
Tóm lại, Hiến pháp 1980 là Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Tuy có nhiều nhược điểm nhưng Hiến pháp 1980 là một mốc quan trọng trong lịch sử lập hiến của nước ta.
V. Hiến pháp 1992.
1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1992.
Sau một thời gian phát huy hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp 1980 tỏ ra không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra một thời kỳ đổi mới ở nước ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những sai lầm của Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân lao động, trên cơ sở đó để có những nhận thức mới đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng một xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng và văn minh. Với tinh thần của Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VI Quốc hội khóa 8, tại kỳ họp thứ 3 ngày 22/12/1988 đã ra Nghị quyết sửa đổi lời nói đầu của Hiến pháp 1980. ngày 30/6/1989, kỳ họp thứ V Quốc hội khóa 8 lại ra Nghị quyết sửa đổi 7 điều: 57, 116, 118, 122, 123, 125 để xác định thêm quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân của công dân và thành lập thêm thường trực Hội đồng nhân dân trong cơ cấu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, đồng thời củng cố thêm các mặt hoạt động của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Trong kỳ họp này Quốc hội đã ra Nghị quyết thành lập ủy ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện đáp ứng yêu cầu của tình hình kinh tế, xã hội mới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. ủy ban sửa đổi Hiến pháp được thành lập bao gồm 28 người, do Chủ tịch Hội đồng nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch. ủy ban dự thảo Hiến pháp đã họp nhiều phiên để chỉnh lý, bổ sung và thông qua toàn văn dự thảo Hiến pháp sửa đổi.
Cuối năm 1991 đầu năm 1992 Bản dự thảo Hiến pháp lần ba đã được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân và ý kiến của Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng, Dự thảo Hiến pháp lần 4 đã hoàn thành và được trình lên Quốc hội khóa VIII, tại kỳ họp thứ XI xem xét. Sau nhiều ngày thảo luận sôi nổi với những chỉnh lý và bổ sung nhất định, ngày 15 tháng 4 năm 1992 Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Việc soạn thảo và ban hành Hiến pháp 1992 là một quá trình thảo luận dân chủ và chắt lọc một cách nghiêm túc những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân về tất cả các vấn đề từ quan điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Bản Hiến pháp này là bản Hiến pháp của Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Đúng như nhận xét của đồng chí Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam Đỗ Mười, nó là "sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước"(1).
2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1992
Hiến pháp 1992 gồm lời nói đầu và 147 điều chia làm 12 chương.
Lời nói đầu của Hiến pháp 1992 về cơ bản cũng giống như lời nói đầu của các Hiến pháp trước ghi nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam và xác định những nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Trong lời nói đầu cũng xác định những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp sẽ quy định.
Chương I - Chế độ chính trị, cũng bao gồm 14 điều (từ Điều 1 đến Điều 14) như Hiến pháp 1980. Tại chương này Hiến pháp cũng xác định những nguyên tắc cơ bản của tổ chức quyền lực chính trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức (Điều 2). Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam (Điều 4); nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc (Điều 5); nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 6); nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín (Điều 7). Khác với Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 không dùng thuật ngữ "Nhà nước chuyên chính vô sản" mà dùng thuật ngữ "Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân". Việc thay đổi thuật ngữ này không làm thay đổi bản chất của Nhà nước mà chỉ để làm rõ bản chất "của dân, do dân và vì dân" của Nhà nước ta, phù hợp với chính sách đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp trong xã hội và phù hợp với xu thế của quốc tế và thời đại. Đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của nó là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Theo quy định của Hiến pháp 1992, mặt trận có nhiệm vụ phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức nhà nước (Điều 9).
Khác với Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 quy định một đường lối đối ngoại rộng mở. Theo quy định của Hiến pháp mới nước ta thực hiện chính sách hòa bình hữu nghị, mở rộng giao lưu hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng, tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chính sách đối ngoại rộng mở đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để nước ta có thể hòa nhập vào trào lưu chung của văn minh thế giới và phù hợp với xu hướng quốc tế hóa rất cao của lực lượng sản xuất thế giới. Chính sách đối ngoại đúng đắn và phù hợp với thời đại của Hiến pháp 1992 đã làm tiền đề cho những thắng lợi to lớn của nước ta trong lĩnh vực hợp tác kinh tế với nước ngoài.
Chương II - Chế độ kinh tế, bao gồm 15 điều (từ Điều 15 đến Điều 29). Có thể nói rằng đây là chương được thay đổi một cách cơ bản nhất, thể hiện rõ nhất quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
Theo quy định tại Điều 15, đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước ta là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới (Điều 16).
Như vậy, với Hiến pháp 1992, chúng ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể sang nền kinh tế hàng hóa thị trường với nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam Hiến pháp quy định: Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh (Điều 21). Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật (Điều 22). Như vậy, Hiến pháp đã xác định sự bình đẳng của các thành phần kinh tế trước pháp luật. Hơn nữa Nhà nước còn khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam. Nhà nước đảm bảo quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như tài sản hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khác không bị quốc hữu hóa (Điều 23, 25). Về vấn đề đất đai, cũng như trước đây, Hiến pháp 1992 quy định đất đai thuộc quyền sở hữu nhà nước. Tuy nhiên, Hiến pháp quy định thêm về quyền được sử dụng đất lâu dài đối với người được giao và được chuyển quyền sử dụng đó theo quy định của pháp luật (Điều 18).
Chương III - Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bao gồm 14 điều (từ Điều 30 đến Điều 43).
Bên cạnh việc xác định đường lối bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam: Dân tộc, hiện đại, nhân văn, kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân. Hiến pháp còn xác định "giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu" (Điều 35). Có thể nói rằng Hiến pháp 1992 đánh dấu một cái mốc quan trọng trong chính sách giáo dục và đào tạo của Nhà nước ta thể hiện đúng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người".
Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bao gồm 5 điều (từ Điều 44 đến Điều 48).
Về cơ bản chương này giống như Hiến pháp 1980 là xác định đường lối quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên, Hiến pháp 1992 còn quy định bổ sung thêm về nhiệm vụ xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (Điều 47).
Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 34 điều (từ Điều 49 đến Điều 82). So với Hiến pháp 1980 thì chương này trong Hiến pháp 1992 có nhiều điều hơn, nhiều quyền và nghĩa vụ được bổ sung và sửa đổi. Khắc phục thiếu sót của các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp 1992 lần đầu tiên quy định "các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng" (Điều 50). ở nước ta, ngoài công dân Việt Nam và công dân nước ngoài đến làm việc và sinh sống ở Việt Nam còn có người không có quốc tịch. Với quy định trên đây người không có quốc tịch cũng được Nhà nước ta tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Với Hiến pháp 1992 lần đầu tiên quyền tự do kinh doanh của công dân được xác lập (Điều 57). Đây là một trong những chìa khóa quan trọng để mở cánh cửa tự do trong lĩnh vực hoạt động kinh tế của công dân, xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh. Cùng với quyền tự do kinh doanh, công dân còn có quyền sở hữu "về tư liệu sản xuất, vốn và tài sản trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác" (Điều 58). Những quy định này hơn bao giờ hết tạo điều kiện thuận lợi cho công dân Việt Nam xây dựng một cuộc sống cho bản thân mình giàu có, thịnh vượng. Trên cơ sở đó mà đồng thời làm giàu cho gia đình và xã hội. Ngoài các quy định nói trên còn có quy định về "quyền được thông tin" là một quyền mới được xác lập trong Hiến pháp 1992. Quyền này được hiểu là quyền được nhận tin và truyền tin theo quy định của pháp luật.
Ngoài việc thiết lập các quyền mới, Hiến pháp còn sửa đổi một số quy định về quyền của công dân không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước và không thể thực hiện được trong thực tiễn.
Chương VI - Quốc hội, bao gồm 18 điều (từ Điều 83 đến Điều 100). Cũng như Hiến pháp 1980 chương này xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Quốc hội. Về cơ bản nội dung quyền hạn giống Hiến pháp 1980, tuy nhiên có một số bổ sung về quyền hạn của Quốc hội như quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước, quyết định trưng cầu ý dân (Điều 48). Nhìn chung nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội thể hiện trên bốn lĩnh vực:
- Lập hiến và lập pháp;
- Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước;
- Xây dựng củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa;
- Thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Về cơ cấu tổ chức của Quốc hội theo Hiến pháp mới có một số thay đổi nhất định: bỏ thể chế Hội đồng nhà nước vừa là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, vừa là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khôi phục lại chế định ủy ban thường vụ Quốc hội và chế định Chủ tịch nước như Hiến pháp 1959. Theo Hiến pháp 1992, Chủ tịch và các Phó chủ tịch Quốc hội đồng thời là Chủ tịch, các phó Chủ tịch ủy ban thường vụ Quốc hội. Một số thành viên của các Hội đồng, ủy ban của Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách (Điều 94, 95).
Đề cao hơn nữa vai trò của đại biểu Quốc hội, Hiến pháp 1992 quy định rõ: "Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước" (Điều 97). So với Hiến pháp 1980 nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội cũng như trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ của mình được quy định cụ thể hơn (xem Điều 97 và Điều 100 Hiến pháp 1992).
Chương VII - Chủ tịch nước, bao gồm 8 điều (từ Điều 101 đến Điều 108). Với Hiến pháp 1992 chế định Chủ tịch nước cá nhân được quy định lại thành một chế định riêng biệt như Hiến pháp 1959.
So với chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1992 có nhiều điểm khác biệt. Trước hết Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ nên quyền hạn rất lớn. Hiến pháp 1959 quy định Chủ tịch nước chỉ đứng đầu Nhà nước chứ không đứng đầu Chính phủ nhưng quyền hạn của Chủ tịch nước vẫn rất lớn vì Chủ tịch nước "khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ" (Điều 66) và Chủ tịch nước khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ tọa Hội đồng chính trị để xem xét những vấn đề rất lớn của nước nhà (Điều 67) Chủ tịch theo Hiến pháp 1980 không phải là cá nhân mà là Chủ tịch tập thể. Thể chế Chủ tịch tập thể như đã nói ở phần trước có nhiều nhược điểm như không nhanh nhạy, không linh hoạt và khó khăn trong việc đối ngoại. Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1992 quyền hạn không rộng như Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Theo quy định của Hiến pháp 1992, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Thẩm quyền của Chủ tịch nước được quy định tại Điều 103, Hiến pháp 1992.
Chương VIII - Chính phủ, bao gồm 19 điều (từ Điều 109 đến Điều 117)
Cũng như "Hội đồng Chính phủ" theo Hiến pháp 1959, Chính phủ theo Hiến pháp 1992 được quy định là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu so sánh cả bốn bản Hiến pháp của nước ta chúng ta thấy quan niệm về tính chất của Chính phủ có những thay đổi nhất định. Hiến pháp 1946 quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Nghị viện. Hiến pháp 1980 xây dựng Chính phủ (Hội đồng Bộ trưởng) theo mô hình của Hiến pháp xã hội chủ nghĩa nhưng với quan điểm tập quyền "rắn" nghĩa là quyền lực nhà nước thống nhất tập trung vào Quốc hội. Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và giám sát. Các cơ quan nhà nước khác do Quốc hội lập ra là để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội. Hiến pháp 1992 kế thừa Hiến pháp 1959 xây dựng theo quan điểm tập quyền "mềm" nghĩa là quyền lực nhà nước vẫn tập trung thống nhất nhưng cần phải có sự phân chia chức năng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp hành pháp và tư pháp. Vì vậy Hiến pháp 1992 quy định: "Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Với quy định này Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nhà nước chứ không phải của Quốc hội, có thể hoạt động một cách độc lập tương đối trong lĩnh vực hành chính nhà nước.
Cách thức thành lập Chính phủ theo Hiến pháp 1992 hoàn toàn khác với Hiến pháp 1980. Hiến pháp 1992 chỉ có Thủ tướng Chính phủ là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, còn các Phó thủ tướng, các bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ Quốc hội chỉ phê chuẩn theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ(1). Như vậy, Hiến pháp 1992 đề cao vai trò của Thủ tướng Chính phủ trong việc thành lập Chính phủ, làm nổi trội vai trò của Thủ tướng Chính phủ. Có thể nói rằng đây là phương pháp hữu hiệu để xây dựng một chính quyền hành pháp mạnh mẽ.
Việc tăng cường vai trò của người đứng đầu Chính phủ còn thể hiện ở việc tăng thêm nhiều quyền hạn cho Thủ tướng Chính phủ mà trước đây các Hiến pháp 1959, 1980 không quy định. Đó là các thẩm quyền được quy định tại các khoản 2, 4, 5 của Điều 114, Hiến pháp 1992.
Chương IX - Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, bao gồm 8 điều (từ Điều 118 đến Điều 125). Theo quy định của Hiến pháp 1992 nước ta vẫn chia làm 3 cấp hành chính: Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; xã, phường và thị trấn (Điều 118)(2). ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Tính chất của Hội đồng nhân dân vẫn như cũ là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra nhưng Hiến pháp mới nhấn mạnh tính đại diện của Hội đồng nhân dân đã quy định rõ hơn: "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên (Điều 119). Như vậy, có thể thấy rằng hai đặc tính của Hội đồng nhân dân kết hợp nhuần nhuyễn với nhau làm cho Hội đồng nhân dân thực sự trở thành một cơ quan nhà nước quan trọng đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Về cơ cấu tổ chức, Hiến pháp 1992 duy trì các quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân 1989 về thành lập Thường trực Hội đồng nhân dân ở các Hội đồng nhân dân các cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh. Trong tổ chức Hội đồng nhân dân còn thành lập các ban. Theo quy định của Hiến pháp 1992, quyền hạn của Chủ tịch ủy ban nhân dân được tăng cường. Một số quyền hạn trước đây thuộc tập thể ủy ban nhân dân, nay chuyển cho Chủ tịch ủy ban nhân dân (xem Điều 124). Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân do Quốc hội khoá IX (kỳ họp thứ 5) thông qua ngày 21 tháng 6 năm 1994 trên tinh thần Hiến pháp 1992 đã tăng cường quyền lực cho Chủ tịch ủy ban nhân dân (xem Điều 52 của luật này).
Đề cao hơn nữa vai trò của các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng trong quản lý nhà nước và xã hội, Hiến pháp 1992 quy định Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các "đoàn thể nhân dân địa phương được mời tham dự Hội nghị ủy ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan. Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương (Điều 125).
Chương X - Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, bao gồm 15 điều (từ Điều 126 đến Điều 140).
Theo quy định tại Điều 126 có thể nói về nhiệm vụ của Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân không có gì thay đổi so với quy định của Hiến pháp 1980.
Về tổ chức hệ thống cơ quan tòa án được quy định tại Điều 127, Hiến pháp 1992 và được cụ thể hóa bằng Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1992, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức tòa án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 12 năm 1993, Pháp lệnh về tổ chức tòa án quân sự năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 28 tháng 10 năm 1995. Theo quy định của các văn bản pháp luật trên đây ở nước ta có các tòa án sau đây: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Tòa án quân sự; các Tòa án khác do luật định.
Trước năm 1992 trong hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta chỉ có Tòa án hình sự và Tòa dân sự. Đến nay trong hệ thống tổ chức Tòa án cấp Trung ương và cấp tỉnh còn có thêm Tòa kinh tế, Tòa lao động và Tòa hành chính để chuyên xét xử các tranh chấp kinh tế, lao động và hành chính. ở cấp huyện có thẩm phán chuyên trách xét xử tranh chấp lao động và khiếu kiện hành chính.
Sự khác nhau cơ bản giữa tổ chức Tòa án nhân dân theo Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1980 là Hiến pháp 1992 thực hiện chế độ thẩm phán bổ nhiệm. Dựa trên tinh thần của Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1992 đã quy định chỉ có Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước còn tất cả các thẩm phán của Tòa án nhân dân các cấp kể cả Phó chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức (Điều 38). Nhiệm kỳ bổ nhiệm của các thẩm phán là 5 năm. Còn đối với các Hội thẩm nhân dân thì kết hợp giữa chế độ cử và chế độ bầu.
Về các nguyên tắc xét xử, Hiến pháp 1992 ghi nhận lại những nguyên tắc đã quy định trong Hiến pháp 1980. Về Viện kiểm sát nhân dân, Hiến pháp 1992 cũng xác định tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn như trước đây nhưng về tổ chức và trách nhiệm cũng có những thay đổi và bổ sung nhất định. Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1992 cụ thể hóa quy định của Hiến pháp thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập ủy ban kiểm sát. ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng cử và trình ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn. ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm có: Viện trưởng, các Phó viện trưởng, một số kiểm sát viên. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Viện trưởng cử và trình Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phê chuẩn. Một vấn đề quan trọng trước đây do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định nay chuyển cho Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương(1).
Ngoài quy định nói trên, Hiến pháp 1992 cũng như Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 có quy định mới về việc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 140 Hiến pháp 1992).
Các quy định trên đây về Viện kiểm sát nhân dân cho chúng ta thấy rằng Hiến pháp 1992 một mặt vẫn đề cao chế độ làm việc theo nguyên tắc thủ trưởng và trực thuộc một chiều để đề cao tính độc lập của Viện kiểm sát, mặt khác phải kết hợp nguyên tắc này với chế độ bàn bạc tập thể khi Viện kiểm sát quyết định những vấn đề quan trọng. Đồng thời, Hiến pháp mới cũng các định tính chất giám sát của Quốc hội cũng như Hội đồng nhân dân các cấp với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương XI - Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh, bao gồm năm điều (từ Điều 141 đến Điều 145). Chương này về cơ bản giữ nguyên các quy định của Hiến pháp 1980, chỉ bổ sung thêm vào Hiến pháp việc quy định ngày Quốc khánh của nước ta là 2/9, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Chương XII - Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp là chương cuối cùng của Hiến pháp bao gồm Điều 146, Điều 147. Nội dung của chương này hoàn toàn giống quy định của Hiến pháp 1980.
Tóm lại, Hiến pháp 1992 đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam. Đây là bản hiến pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh tế, từng bước và vững chắc về chính trị. Đây là bản hiến pháp kế thừa có chắt lọc những tinh hoa của các hiến pháp 1946, 1959, 1980, đồng thời là bản hiến pháp vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Hiến pháp 1992 đánh dấu sự phục hưng và phát triển của nền tảng kinh tế của xã hội Việt Nam vào những năm cuối của thế kỷ. Nó là tấm gương phản chiếu những đổi mới trong tư tưởng lập hiến và lập pháp của con người Việt Nam. Đó là bản hiến pháp thể hiện sự độc lập và tự chủ trên tiến trình phát triển của nền triết học pháp quyền Việt Nam, một nền triết học pháp quyền thể hiện bản sắc dân tộc, đồng thời thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn với tính quốc tế và hiện đại trên cơ sở phát triển những tinh hoa của nền văn hóa pháp lý Việt Nam và sự tiếp thu những tinh hoa văn hóa pháp lý thế giới.
3. Hiến pháp 1992 sửa đổi
a. Sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992.
Sau khoảng mười năm có hiệu lực, Hiến pháp 1992 đã phát huy được hiệu quả của một đạo luật cơ bản của nhà nước. Tuy nhiên, sau một thập kỷ, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội có những thay đổi nhất định đòi hỏi Hiến pháp phải được bổ sung, sửa đổi nhằm phát huy hơn nữa hiệu lực và hiệu quả của nó trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ IX đã ra Nghị quyết số 43/2001/QH10 ngày 29/6/2001 về việc thành lập Uỷ ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992.
Ngày 25/12/2001 Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ X với đa số tuyệt đối đã nhất trí thông qua Nghị quyết số 51/2001/QH10 về việc sửa đổi , bổ sung một số điều của Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992.
b. Nội dung cơ bản của những vấn đề được sửa đổi, bổ sung trong Hiến pháp 1992.
Theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 có 24 vấn đề được sửa đổi, bổ sung trong Hiến pháp 1992.
1. Những sửa đổi, bổ sung trong Lời nói đầu.
Quốc hội đã nhất trí bổ sung cụm từ: “phát huy truyền thống yêu nước” vào đoạn cuối của Lời nói đầu.
2. Những sửa đổi bổ sung trong chương I – Chế độ chính trị.
Chương Chế độ chính trị được sửa đổi bổ sung 4 Điều. Đó là các Điều 2, 3, 8,9:
3. Những sửa đổi, bổ sung trong chương II – Chế độ kinh tế.
Chương Chế độ kinh tế được sửa đổi, bổ sung năm điều: Điều 15, Điều 16, Điều 19, Điều 21, Điều 25.
4. Những sửa đổi, bổ sung trong chương III – Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ.
Chương này được sửa đổi, bổ sung trong bốn điều : Điều 30, Điều 35, Điều 36, Điều 37.
5. Những sửa đổi, bổ sung trong chương V – Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Chương V được sửa đổi, bổ sung tại 2 điều : Điều 59 và Điều 75.
6. Những sửa đổi, bổ sung trong chương VI – Quốc hội.
Trong chương VI có sự sửa đổi,bổ sung tại Điều 84 (các điểm 4,5,7, 13) và Điều 91 (bãi bỏ điểm 8, sửa đổi điểm 9).
7. Những sửa đổi, bổ sung trong Chương VII – Chủ tịch nước.
Chương VII được sửa đổi, bổ sung tại các điểm 4, 6, 7, 9 và 10 điều 103.
8. Những sửa đổi, bổ sung trong Chương VIII- Chính phủ.
Trong Chương VIII có sự sửa đổi, bổ sung ở điểm 8 Điều 112, điểm 2 Điều 114, Điều 116.
9.Những sửa đổi, bổ sung trong chương X – Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
Chương X được sửa đổi, bổ sung tại Điều 137 và Điều 140.
Tóm lại, trong 12 chương Hiến pháp 1992 chỉ có 4 chương là : Bảo vệ Tổ quốc XHCN (Chương IV), Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (Chương IX), Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, ngày Quốc khánh (Chương XI), Hiệu lực của Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp (Chương XII) là được hoàn toàn giữ nguyên, còn lại từ lời nói đầu cho đến các chương khác đều có sửa đổi , bổ sung. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 theo Nghị quyết số 51/2001/ QH10 ngày 25/12/2001 đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử lập hiến Việt Nam, đánh dấu một bước hoàn thiện chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chính sách văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân , củng cố việc tổ chức, phân công và phối hợp các nhánh quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân vì mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá của thế kỷ XXI.



CHƯƠNG V
CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ CỦA NƯỚC
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Khái niệm chế độ chính trị
Chế độ chính trị là chế định quan trọng, giữ vị trí hàng đầu trong hệ thống luật Hiến pháp. Chế định đó bao gồm tổng thể các qui phạm được thể hiện tập trung ở chương I của Hiến pháp và một loạt các qui định ở các chương khác trong Hiến pháp ghi nhận và điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội đa dạng trong lĩnh vực chính trị.
- Các quan hệ chính trị, suy cho cùng là những quan hệ được quyết định bởi các quan hệ sản xuất và các quan hệ giai cấp - xã hội, nhưng đồng thời chúng cũng có tác động tích cực đến các quan hệ sản xuất và các quan hệ giai cấp - xã hội.
Như vậy, chế độ chính trị của mọi xã hội có giai cấp tạo thành một hệ thống rất phức tạp các quan hệ chính trị tồn tại ở giai đoạn phát triển của nó - các quan hệ theo nguồn gốc và trong sự phát triển của mình được quyết định bởi chế độ kinh tế và chế độ giai cấp xã hội và đến lượt mình có tác động tích cực đến toàn bộ cơ cấu các quan hệ xã hội.
- Để hiểu rõ hơn về chế độ chính trị, cần làm sáng tỏ khái niệm chính trị. Thuật ngữ chính trị có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "politika", có nghĩa là công việc nhà nước, công việc xã hội. Chính trị xét về bản chất là quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các dân tộc, là hoạt động của các đảng phái chính trị, của Nhà nước trong việc giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước.
Chính trị là một lĩnh vực rất phức tạp, tinh tế, là tổng thể các quan hệ, hiện tượng, sự kiện hết sức phong phú, đa dạng cả về nội dung và hình thức. Nhưng ở dạng khái quát nhất, chính trị được hiểu là sự tham gia vào các công việc của Nhà nước, việc qui định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Nhà nước. Chính trị cũng biểu hiện những quan hệ giữa các dân tộc và các quốc gia.
- Trong khoa học pháp lý khái niệm chế độ chính trị được hiểu ở nhiều khía cạnh khác nhau.
+ Trước hết, nếu đặt chế độ chính trị trong mối quan hệ với hình thức nhà nước, chế độ chính trị được hiểu là tổng thể các phương pháp, cách thức, phương tiện và thủ đoạn mà giai cấp thống trị trong xã hội sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước.
+ Nếu xem xét chế độ chính trị ở khía cạnh là một chế độ của luật Hiến pháp, chế độ chính trị được hiểu là chế định cơ bản của luật Hiến pháp chi phối nội dung của tất cả các chế định khác. Những qui định đó là nền tảng cho việc xây dựng các chế định khác trọng luật Hiến pháp như: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân...
+ Dựa trên cách tiếp cận tổng thể và hệ thống, chế độ chính trị được hiểu là một bộ phận hợp thành của chế độ xã hội.
Như vậy, chế độ chính trị là một khái niệm rất rộng và phức tạp. Do vậy, khi làm sáng tỏ khái niệm chế độ chính trị cần tìm hiểu những vấn đề sau:
- Bản chất của chế độ chính trị (thể hiện tập trung và chủ yếu ở bản chất của Nhà nước);
- Mục đích của chế độ chính trị nhằm xác lập và bảo vệ quyền lực của ai? Vì lợi ích của ai?
- Những nguyên tắc cơ bản của việc thiết lập chế độ chính trị;
- Cơ sở chính trị của quyền lực chính trị và chế độ chính trị;
- Chế độ chính trị đó được thể hiện cụ thể như thế nào thông qua tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị;
- Mối quan hệ giữa Nhà nước với các bộ phận hợp thành hệ thống chính trị;
- Cơ chế thực hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước
- Chính sách về dân tộc;
- Chính sách về đối ngoại.
Xuất phát từ tính chất, ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt của chế độ chính trị đối với sự phát triển của xã hội, cho nên Hiến pháp nước ta ghi nhận "chế độ chính trị" trong chương đầu với vị trí là chế định pháp lý cơ bản, chi phối nội dung của các chế định khác trong Hiến pháp. Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, chế định về chế độ chính trị nước ta đã trải qua bốn bước phát triển quan trọng mà trong đó bước sau là sự kế thừa và phát triển của bước trước ở mức cao hơn, hoàn thiện hơn. Trong Hiến pháp năm 1992, chế định về chế độ chính trị đã thể hiện một cách đầy đủ và toàn diện các qui định và nguyên tắc chính trị cơ bản, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thiết lập, củng cố và bản chất chế độ chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các qui định và nguyên tắc trong chương chế độ chính trị còn là cơ sở, nền tảng để qui định các chương về Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
2. Quyền lực của Nhân dân và các hình thức thực hiện quyền lực của Nhân dân
Quyền lực, các hình thức thực hiện quyền lực là những vấn đề cơ bản đầu tiên của chế độ chính trị. Việc tìm hiểu những vấn đề đó làm cho chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về bản chất của chế độ chính trị ở từng quốc gia.
Từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 2 tháng 9 năm 1945 đến nay, ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân bao giờ cũng là nguyên tắc quan trọng nhất trong việc thiết lập và xây dựng chế độ chính trị của Nhà nước ta. Nguyên tắc này thể hiện bản chất của Nhà nước và chế độ chính trị của nước ta. Chính vì vậy, nguyên tắc này bao giờ cũng được trịnh trọng ghi nhận trong các điều đầu tiên của các bản Hiến pháp nước ta. Điều 1 Hiến pháp năm 1946; Điều 4 Hiến pháp năm; Hiến pháp năm 1980 (Điều 6) Hiến pháp năm 1992 ở Điều 2 và Điều 6 Hiến pháp
Dựa vào các qui định trên chúng ta thấy rằng bốn bản Hiến pháp nước ta đã long trọng ghi nhận nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân và Việc khẳng định nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân gắn liền với việc thiết lập một cơ chế tổ chức thích hợp để tổ chức thực hiện và đảm bảo quyền lực nhân dân đó.
Nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân thể hiện bản chất của Nhà nước dân chủ chân chính. Quyền lực nhà nước không thể thuộc về một giai cấp, một tổ chức xã hội hay một nhóm xã hội nào.
3. Hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa thể hiện bản chất, các đặc điểm, qui luật hình thành và phát triển của chế độ chính trị mới, của chủ nghĩa xã hội. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa hệ thống chính trị được tổ chức và hoạt động với tư cách là một hệ thống thống nhất của các thiết chế và quan hệ chính trị.
Ở nước ta, hệ thống chính trị nước ta bao gồm: Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội như: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh và các tổ chức xã hội khác.
Hệ thống chính trị nước ta có một số đặc điểm cơ bản sau: 1, hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt động rất chặt chẽ, có tính thống nhất cao trên cơ sở phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi bộ phận hợp thành hệ thống chính trị; 2, hệ thống chính trị nước ta có mục tiêu hoạt động tương đối thống nhất có sự thống nhất về lợi ích lâu dài, hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tối cao là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; 3, hệ thống chính trị nước ta có tính dân chủ cao; 4, trong xã hội ta quần chúng lao động có tính tích cực chính trị cao.
3.1. Vị trí, vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị ở nước ta.
Hệ thống chính trị nước ta là hệ thống chính trị nhất nguyên, trong đó chỉ tồn tại một đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị ở nước ta, nhưng Đảng là hạt nhân của hệ thống đó, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của hệ thống chính trị, là hạt nhân đảm bảo sự thống nhất của nó.
Hiến pháp năm 1980 đã thể chế hoá vị trí và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cả trong lời nói đầu và ở điều 4 của Hiến pháp. Hiến pháp năm 1992 thể hiện vị trí và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam một cách ngắn gọn và rất cô đọng. Điều 4 ghi nhận: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".
3.2. Vị trí, vai trò của Nhà nước trong hệ thống chính trị ở nước ta.
Nhà nước có vị trí và vai trò rất quan trọng trong hệ thống chính trị. Bởi vì, quyền lực chính trị bao giờ cũng thể hiện tập trung ở quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước không chỉ là hình thức cơ bản, quan trọng nhất của việc thực hiện quyền lực chính trị; tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị và hiệu quả hoạt động của hệ thống đó tuỳ thuộc rất nhiều vào sức mạnh và hiệu lực của quản lý nhà nước. Nhà nước là một bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị, nhưng nó đứng ở vị trí trung tâm của hệ thống đó và giữ vai trò hết sức quan trọng như vậy trong hệ thống chính trị ở nước ta bởi vì nó có một số điều kiện sau:
- Nhà nước là người đại diện chính thức cho các giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Điều đó làm cho Nhà nước có một cơ sở xã hội rộng rãi để triển khai nhanh chóng và thực hiện tốt những quyết định, chính sách của mình.
- Nhà nước là chủ thể của quyền lực chính trị, là tổ chức chính trị thể hiện tập trung nhất quyền lực của nhân dân. Nhà nước là tổ chức chính trị bao trùm toàn bộ xã hội, có bộ máy đặc biệt để thực thi quyền lực nhân dân.
- Nhà nước có sức mạnh cưỡng chế toàn diện, có hiệu lực xã hội nhất. Vì Nhà nước có hệ thống lực lượng vũ trang, nhà tù, Toà án mà không có một thiết chế chính trị nào khác có được. Quân đội, cảnh sát, nhà tù, Toà án là những công cụ cưỡng chế mà thông qua đó Nhà nước ta có thể duy trì và ổn định trật tự xã hội.
- Nhà nước ban hành và sử dụng pháp luật để quản lý các quá trình xã hội. Nhờ có pháp luật, mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được triển khai một cách rộng rãi và thống nhất trên qui mô toàn xã hội.
- Nhà nước có đầy đủ phương tiện vật chất cần thiết để thực hiện vai trò của mình. Nhà nước ta là chủ sở hữu tối cao đối với những tư liệu sản xuất quan trọng nhất của xã hội. Bằng việc nắm giữ các tư liệu sản xuất đó, Nhà nước thực hiện việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế, đảm bảo cho nó phát triển vì lợi ích của nhân dân. Nhà nước nắm giữ nguồn tài chính và cơ sở vật chất to lớn, đảm bảo cho hoạt động của bộ máy nhà nước và của các tổ chức chính trị xã hội khác.
- Nhà nước là thiết chế chính trị duy nhất trong hệ thống chính trị có chủ quyền quốc gia. Nhà nước có quyền tối cao trong việc quyết định những vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước.
Tất cả các điều kiện trên là ưu thế riêng có của Nhà nước so với các tổ chức chính trị - xã hội khác, chúng qui định vị trí, vai trò trung tâm của Nhà nước trong hệ thống chính trị ở nước ta.
3.3. Vị trí vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở nước ta.
Ở nước ta, Hiện nay, các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta bao gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
1. Phân tích và làm rõ khái niệm chế độ chính trị?
2. Đ/c hiểu như thế nào là quyền lực của nhân dân. Các hình thức thực hiện quyền lực nhân dân?
3. Hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam?
CHƯƠNG VI
CHẾ ĐỘ KINH TẾ
I. KHÁI NIỆM CHẾ ĐỘ KINH TẾ
Chế độ kinh tế là nền tảng của chế độ xã hội, là một trong những cơ sở để xác định chế độ xã hội. Khác với hình thái kinh tế-xã hội, trong mỗi giai đoạn phát triển của mình, chế xã hội của mỗi nước tương ứng với một loại quan hệ sản xuất đặc trưng, mà quan hệ này được xác định bởi quan hệ sở hữu, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, những điều kiện lịch sử, truyền thống của dân tộc. Toàn bộ những quan hệ đó tạo thành chế độ kinh tế của mỗi nước.
Quan hệ sở hữu là nền tảng của những quan hệ sản xuất, là cơ sở để xác định đặc tính của chúng. Nếu như lực lượng sản xuất tạo thành cơ sở vất chất của quan hệ sản xuất thì sở hữu phương tiện sản xuất là cơ sở bên trong của chế độ sở hữu và là mối liên kết khách quan các yếu tố của chế độ kinh tế. Chính sách về lao động sản xuất, phân phối và tiêu dùng cũng là bộ phận hợp thành của chế độ kinh tế, thể hiện quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất.
Như vậy, dưới giác độ kinh tế-chính trị, chế độ kinh tế là toàn bộ những quan hệ sở hữu, sản xuất, trao đổi, phân chia và sử dụng những của cải vất chất và tinh thần.
Dưới giác độ pháp luật, chế độ kinh tế là toàn bộ những quy định của pháp luật do Nhà nước đặt ra để thiết lập hệ thống những quan hệ kinh tế phù hợp với bản chất, mục đích của Nhà nước, truyền thống lịch sử và điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Nhà nước trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định. Như vậy những quan hệ kinh tế được điều chỉnh không chỉ riêng bởi ngành luật Hiến pháp, mà còn bởi các ngành luật khác như thương mại, tài chính, lao động, đất đai, ngân hàng... Mỗi ngành luật điều chỉnh một phạm vi những quan hệ kinh tế nhất định. Là ngành luật chủ đạo, Luật Hiến pháp điều chỉnh những quan hệ kinh tế cơ bản và quan trọng sau đây:
+ Những quan hệ liên quan đến chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước. Đây là những quan hệ xã hội rất quan trọng, chúng bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng của Đảng, phù hợp với điều kiện của đất nước.
+ Những quan hệ liên quan đến việc xác định chế độ sở hữu. Đây là quan hệ nền tảng quyết định tính chất của chế độ kinh tế.
+ Những quan hệ liên quan đến việc xác định các thành phần kinh tế. Đây là những quan hệ xã hội quan trọng, chúng thiết lập quy chế pháp lý của các thành phần kinh tế, định hướng phát triển cho các thành phần kinh tế.
+ Những quan hệ liên quan đến việc xác định các nguyên tắc quản lý nền kinh tế. Đây cũng là những quan hệ rất quan trọng, chúng bảo đảm cho Nhà nước kiểm soát sự phát triển của nền kinh tế, bảo đảm cân đối lợi ích của các chủ thể tham gia vào quan hệ kinh tế.
Như vậy, dưới giác độ pháp luật, chế độ kinh tế là tổng thể quy phạm pháp luật (trước hết là Luật Hiến pháp) điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc xác định mục đích, chính sách, phương hướng phát triển kinh tế của Nhà nước; các loại hình chế độ sở hữu; quy chế pháp lý của các thành phần kinh tế; các nguyên tắc Nhà nước quản lý kinh tế.
Từ khi thành lập nước cho đến nay, chế độ kinh tế của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau với những nét đặc thù riêng biệt.
Giai đoạn từ 1945 đến 1959.
Giai đoạn từ 1959 đến 1980.
Giai đoạn từ 1980 đến 1992.
Giai đoạn từ 1992 đến nay.
2. MỤC ĐÍCH CHÍNH SÁCH KINH TẾ, PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC
1. Mục đích phát triển kinh tế của Nhà nước
“Làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân” (Điều 16 Hiến pháp 1992).
Hiến pháp 1959 đã xác định mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước ta là: “Không ngừng phát triển sức sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân”
Điều 9 Hiến pháp 1980 khẳng định rõ ràng hơn mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là: “Thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng tăng của cả xã hội”
Hiến pháp 1992 đã xác định rõ ràng và cụ thể hơn mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước. Quy định của Hiến pháp 1992 đã tạo cơ sở pháp lý cho sự thay đổi quan trọng trong chính sách kinh tế của Nhà nước, góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy tối đa tiềm năng của các thành phần kinh tế, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Phương hướng phát triển kinh tế của Nhà nước
Thể chế hoá đường lối của Đại hội lần thứ VI của Đảng, Hiến pháp 1992 xác định phương hướng phát triển kinh tế của Nhà nước là Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 xác định: “Nhà nước xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng...” (Điều 15).
Chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường của Nhà nước ta được bảo đảm bằng các biện pháp mang tính chất hiến định sau: Khoản 2 Điều 15; Điều 16; Điều 19; Điều 21; Khoản 2 Điều 16; Điều 25…
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nước ta còn được thể hiện ở tính định hướng xã hội của nền kinh tế. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã thực hiện các chính sách xoá đói giảm nghèo, ưu tiên phát triển kinh tế ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; tạo điều kiện cho đông đảo nhân dân Việt Nam được hưởng lợi từ thành quả phát triển của nền kinh tế. Điều này được phản ánh thông qua báo cáo hàng năm về chỉ số phát triển nhân lực (HDI) của Quỹ phát triển Liên hợp quốc (UNDP). Theo báo cáo của tổ chức này, năm 1999 Việt Nam đứng hàng thứ 121/175 nước về chỉ số phát triển nhân lực, đến năm 2002 Việt Nam vươn lên xếp thứ 110/174 nước. Điều này chứng tỏ sự tăng trưởng kinh tế hàng năm ở nước ta đã góp phần cải thiện đời sống của toàn thể nhân dân Việt Nam.
III. CHẾ ĐỘ SỞ HỮU
Chế độ sở hữu là yếu tố cơ bản quyết định tính chất của chế độ kinh tế. Chính vì vậy vấn đề sở hữu luôn trở thành đối tượng điều chỉnh của bất cứ bản Hiến pháp nào, trong đó có Hiến pháp nước ta.
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) đã mở ra bước ngoặc trong nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Đại hội khẳng định cần phải vận dụng quan điểm của Lê nin “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”(3).
Theo quy định của Hiến pháp 1992, ở nước ta tồn tại các loại hình chế độ sở hữu sau: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân.
1. Sở hữu Nhà nước
Hiến pháp 1992 xác định: “Nhà nước phát triển..cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”.
2. Sở hữu tập thể.
3. Sở hữu tư nhân
Hiến pháp 1992 khẳng định: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác” (Điều 58). Việc thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của loại hình chế độ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất là một bước phát triển mới trong chế độ kinh tế nước ta.
Bên cạnh mặt tích cực, chế độ sở hũu tư nhân luôn tiềm ẩn mặt trái, là điều kiện phát sinh sự chiếm hữu lao động không được trả công, sự chiếm hữu lợi ích kinh tế của người lao động. Vì vậy, để ngăn ngừa tình trạng này, Nhà nước cũng thực hiện chính sách bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động nói chung, người lao động, làm thuê trong các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân nói riêng.
IV. CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
1. Thành phần kinh tế Nhà nước
2. Thành phần kinh tế tập thể
3. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân
4. Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước

5. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
V. CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ KINH TẾ
Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn phát triển lành mạnh thì cần phải có sự quản lý của Nhà nước. Đặc biệt đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò quản lý của Nhà nước càng trở nên quan trọng.
Những nguyên tắc định hướng cho sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế được ghi trong điều Điều 26 Hiến pháp 1992: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nước giữa các ngành, các cấp; kết hợp lợi ích kinh tế của cá nhân, của tập thể với lợi ích của Nhà nước”.
1. Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách.
2. Trong quản lý kinh tế, Nhà nước phân công trách nhiệm, phân cấp quản lý giữa các ngành, các cấp.
3. Trong quản lý kinh tế, Nhà nước kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể với lợi ích của Nhà nước.

CHÚ THÍCH
1. Xem. Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2001, tr. 69
2. Xem. Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam, Sdd, tr. 69.
3. Xem. Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Sự thật, H. 1987, tr.56.
CHƯƠNG VII
CHÍNH SÁCH VĂN HÓA, XÃ HỘI,
ĐỐI NGOẠI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

I. CƠ SỞ XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Nhà nước đại diện cho lợi ích của các giai cấp và các tầng lớp xã hội, Nhà nước dựa vào các giai cấp và các tầng lớp xã hội để thực hiện nhiệm vụ và chức năng của mình. Chính các giai cấp và các tầng lớp xã hội đó lập thành cơ sở xã hội của Nhà nước.
Cơ sở xã hội của Nhà nước được quyết định bởi cơ cấu giai cấp trong xã hội, địa vị của các giai cấp và các tầng lớp xã hội. Nói cách khác, cơ sở xã hội của Nhà nước phụ thuộc vào cơ cấu xã hội. Cơ cấu xã hội có liên quan chặt chẽ với chế độ chính trị, chế độ kinh tế của Nhà nước.
Cơ cấu xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là liên minh các giai cấp và các lực lượng xã hội chủ yếu, liên minh này thay đổi theo quá trình phát triển của xã hội và Nhà nước.
II. CHÍNH SÁCH VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Khái niệm về văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ
Khi bàn về văn hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì: “văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”; “Văn hoá là những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần”; “Văn hoá là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh”[1]...
Tóm lại, văn hoá thường được hiểu là trình độ nhận thức, là đạo đức, nhân cách, bản chất và trí tuệ của con người. Còn giáo dục, khoa học và công nghệ là động lực để thúc đẩy toàn bộ nền văn hoá phát triển. Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp, văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ cũng mang tính giai cấp.
2. Chính sách phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ
a. Chính sách phát triển văn hóa
Hiến pháp năm 1992 quy định tại Điều 30.
b. Chính sách phát triển giáo dục
Hiến pháp 1992 ghi nhận tại Điều 35, Điều 36.
c. Chính sách phát triển khoa học và công nghệ.
d. Chính sách phát triển văn học, nghệ thuật.

III. CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Hiến pháp 1992 đã thể chế hoá đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Được thể chế hoá trong Điều 55, Điều 56, Điều 67.
IV. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.
1. Khái niệm
Chính sách đối ngoại của một Nhà nước là thái độ, lập trường mang tính nguyên tắc và những phương hướng cơ bản trong hoạt động đối ngoại của một quốc gia. Chính sách đối ngoại của một Nhà nước phải luôn luôn phù hợp với chính sách đối nội và xuất phát từ chính sách đối nội. Chính sách đối ngoại cũng phải xuất phát từ lợi ích giai cấp của Nhà nước, mà cụ thể là phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân, lợi ích của dân tộc, phải ưu tiên cho lợi ích của dân tộc, của quốc gia, có chú ý đến nghĩa vụ quốc tế một cách hợp lý. Đồng thời, chính sách đối ngoại là sự cụ thể hóa những phương hướng hoạt động chủ yếu của Nhà nước trong quan hệ quốc tế ở từng giai đoạn lịch sử nhất định.
2. Mục đích của chính sách đối ngoại
Mục đích của chính sách đối ngoại của Nhà nước ta là giữ vững hoà bình, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, chính sách đối ngoại của Nhà nước ta là nhằm tạo ra môi trường thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Muốn vậy, phải thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, tránh xung đột vũ trang, mọi xung đột trong quan hệ quốc tế phải được giải quyết bằng con đường thương lượng, đàm phán. Mặt khác, phải tạo sự ổn định về chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với hệ thống chính trị. Chính sách đối ngoại còn phải nhằm vào mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế, phục vụ chiến lược ổn định và phát triển kinh tế.
3. Nội dung chính sách đối ngoại
Điều 14 Hiến pháp 1992 xác định phương hướng và những nguyên tắc cơ bản của chính sách đối ngoại của Nhà nước ta: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng, tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
V. CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
Hiến pháp xác định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc” (Điều 44 Hiến pháp 1992).
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
1. Hãy nêu vai trò của chính sách văn hóa – xã hội đối với việc xây dưng, củng cố cơ sở xã hội của Nhà nước ta.
2. Nội dung của chính sách văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ.
3. Nội dung của chính sách xã hội.
4. Chính sách đối ngoại của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
5. Chính sách an ninh, quốc phòng của Nhà nước ta theo Hiến pháp 1992.

CHƯƠNG VIII
QUỐC TỊCH

I. KHÁI NIỆM VÀ NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH QUỐC TỊCH.
Khái niệm quốc tịch:
Quốc tịch là một phạm trù chính trị- pháp lý; một chế định pháp lý, nó có mối quan hệ khăng khít, bền vững về chính trị cũng như pháp lý giữa Nhà nước với cá nhân, mối quan hệ này không bị giới hạn về thời gian và không gian. Nó là cơ sở pháp lý duy nhất để xác định cá nhân là công dân của một nhà nước nhất định, qua đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa nhà nước và cá nhân với nhau. Dưới góc độ Quốc tế quốc tịch còn là căn cứ để xác định công dân của các quốc gia khác nhau.
Chế định quốc tịch được xuất hiện khi có sự xuất hiện Nhà nước, có nghĩa là sự tồn tại của quốc tịch được thông qua sự tồn tại của Nhà nước.
Chế định quốc tịch một mặt cho phép Nhà nước xác định được cá nhân đó thuộc về một nhà nước nhất định về phương diện pháp lý, mặt khác Nhà nước cũng sẽ xác định được cá nhân nào không phải là công dân (người nước ngoài).
Quốc tịch là một chế định pháp lý quan trọng như vậy, do đó mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xây dựng chế định này trong các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất, đó là Hiến pháp.
Vậy quốc tịch đuợc định nghĩa như sau:
Quốc tịch là mối quan hệ pháp lý đặc biệt giữa cá nhân với nhà nước, mối quan hệ này thông qua vịêc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đó với nhau theo quy định của pháp luật.
Với ý nghĩa và tính chất của chế định quốc tịch nó đòi hỏi mỗi Nhà nước cần phải xác định quốc tịch cho cá nhân. Việc xác định quốc tịch đã được các quốc gia trên Thế giới tiến hành đều dựa trên hai cơ sở, đó là các nguyên tắc chung của luật pháp Quốc tế và chủ quyền quốc gia.
2. Nguyên tắc xác định quốc tịch
Quốc tịch được xác định theo một số nguyên tắc sau (các cách thức hưởng quốc tịch):
- Xác định quốc tịch do sinh ra;
- Xác định quốc tịch do kết hôn;
- Xác định do xin gia nhập quốc tịch;
- Xác định do việc tách nhập các quốc gia;
- Xác định trên cơ sở thưởng quốc tịch.
II. SỰ PHÁP TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM.
Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được ra đời sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đây là Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam châu Á và đây cũng là lần đầu tiên người dân Việt nam thực sự trở thành người chủ đất nước, từ địa hạt của nô lệ bước sang địa hạt của tự do.
Sắc lệnh số 53 - SL ngày 20 /10/ 1945; sắc lệnh số 73 - SL ngày 7/ 12/ 1945; sắc lệnh số 25 - SL ngày 25/2/ 1946; sắc lệnh 215- SL ngày 20/ 10 /1948...Và sau này Uỷ ban thường vụ Quốc hội có ra quyết định số 1013 - NQTVQH ngày 8/2/1971 đề cập đến vấn đề Quốc tịch Việt Nam. Về mặt lịch sử các văn bản pháp lý trên đã có một vai trò quan trọng cho việc hình thành nên chế định quốc tịch Việt Nam. Đặc biệt năm 1988 nước ta đã ban hành đạo luật đầu tiên về quốc tịch Việt Nam ( 28/6/1988). Các văn bản pháp luật về Quốc tịch nêu trên là những cơ sở pháp lý để xác định quốc tịch Việt nam cũng như các vấn đề có liên quan đến chế định quốc tịch trong từng thời kỳ.
Luật quốc tịch năm 1998 là đạo luật đầu tiên quy định khá đầy đủ và thống nhất các vấn đề về quốc tịch Việt Nam. Luật gồm có 6 chương với 42 điều và lời nói đầu. Chương 1 là những quy định chung; chương 2 quy định có quốc tịch Việt Nam; chương 3 quy định về mất quốc tịch; chuơng 4 về thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi; chương 5 quy định về thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch; chương 6 quy định về điều khoản thi hành.
Trên cơ sở luật 1998 về quốc tịch thì có hàng loạt các văn bản hướng dẫn được ban hành, đó là :
- Nghị định số 104 /NĐ- CP năm 1998 của Chính phủ ngày 31 tháng 12 năm 1998 đã quy dịnh chi tiết viẹc thi hàn luật quốc tịch;
- Thông tư liên tịch số 09 ngày 31/12/1998 hướng dân mức thu , nộp , quản lý và sử dụng lệ phí giải quyết việc nhập, trở lại, thôi quốc tịch Việt Nam...
- Thông tư 09/TT-TP ngày 7/4/1999 hướng dẫn việc cấp giấy chứng nhận không có quốc tịch Việt Nam.
- Quyết định số 06 QĐ/TT-QT ngày 7/4/1999 của Bộ trưởng Bộ tư pháp về việc ban hành mẫu giáy tờ về quốc tịch Việt Nam.
Ngoài những văn bản trên những vấn đề liên quan đến quốc tịch Việt Nam còn được ghi nhận trong một số điều ước quốc tế mà nhà nước ta đã tham gia ký kết, như hiệp định về Biên giới; Về vấn đề nuôi con nuôi ...
Chế định quốc tịch ở các văn bản pháp luật trên đều thể hiện được hàng loạt các nguyên tắc xuất pháp từ bản chất của Nhà nước như nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ, bình đẳng dân tộc...
Như vậy các văn bản về quốc tịch nêu trên đã phần nào đáp ứng được yêu cầu chính trị trong việc xác định quốc tịch của công dân Việt nam ngay từ những ngày đầu thành lập nước, tạo cơ sở cho việc Nhà nước ta hoàn thiện các chế định về pháp luật quốc tịch hiện nay cũng như sau này.
III. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM HIỆN HÀNH.
Theo quy định của Luật quốc tịch Việt nam 1998 hiện nay bao gồm những vẫn đề cơ bản sau:
1. Những nguyên tắc cơ bản:
Quyền có quốc tịch:
Điều 1 luật 1998 quy định: “ ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch. Công dân Việt Nam không bị ai tước quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại điều 25 của luật này”.
- Nguyên tắc một quốc tịch Việt Nam:
Tại điều 3 luật 1998 qui định về nguyên tắc một quốc tịch: “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”….
- Nguyên tắc bảo hộ người Việt Nam ở nước ngoài:
Đây là nguyên tắc đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 sửa đổi, điều 75 Hiến pháp quy định: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, là bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài...” Trên cơ sở đố điều 5 Luật 1998 quy định về bảo hộ đối với nguời Việt Nam ở nước ngoài tại điều 5: “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài…
2. Có quốc tịch Việt Nam.
Theo quy định của lụât năm 1998 thì người có quốc tịch Việt Nam bao gồm:
- Người đang có quốc tịch Việt Nam cho đến ngày 1-1-1999.
- Người có quốc tịch Việt Nam kể từ ngày 1-1-1999.
Theo quy định của luật thì ở trường hợp đầu bao gồm công dân Việt Nam ở trong nước và công dân Việt Nam ở nước ngoài (cả người có quốc tịch nước ngoài, song chưa thôi quốc thôi Việt Nam). Trong trường hơp thứ hai theo luật thì người có quốc tịch Việt Nam được xác định theo các căn cứ sau:
- Do sinh ra: Để xác định quốc tịch Việt Nam cho một người do được sinh ra luật 1998 đã kết hợp hai nguyên tắc (huyết thống và nơi sinh). Luật quy định các trường hợp có quốc tịch Việt Nam do sinh ra như sau:
+ Trẻ em khi sinh ra có cha mẹ đều là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam, không kể sinh ra ở trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam.
+ Trẻ em khi sinh ra mà chỉ có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người không quốc tịch hoặc trẻ em khi sinh ra chỉ có mẹ là công dân Việt Nam, còn cha không rõ là ai thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam, không kể sinh ra ở trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam.
+ Trẻ em khi sinh ra chỉ có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, còn người kia là công dân nước ngoài thì có quốc tịch Việt Nam , nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con.
+ Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có cha và mẹ đều là người không quốc tịch nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam. Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có mẹ là người không có quốc tịch nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam.
+ Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi và trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai thì có quốc tịch Việt Nam.
- Nhập quốc tịch Việt Nam: Nhập quốc tịch nói chung đó là việc một công dân của nước này muốn nhập vào quốc tịch của nước khác, hoặc một người không có quốc tịch xin ra nhập quốc tịch của một nhà nước nhất định.
- Công dân nước ngoài và người không quốc tịch xin nhập quốc tịch Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện sau:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam;
b) Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam;
c) Biết tiếng Việt để đủ hòa nhập vào cộng đồng xã hội Việt Nam;
d) Đã thường trú ở Việt Nam từ năm năm trở lên;
e) Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
Trong những trường hợp đặc biệt công dân nước ngoài và người không quốc tịch có thể được nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải có đủ các điều kiện trên như :
- Là vợ, chồng,con, cha hoặc mẹ của công dân Việt Nam;
- Có công lao đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam;
- Có lợi cho nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khi xin nhập quốc tịch Việt Nam hồ sơ xin nhập phải có cam kết về việ từ bỏ quốc tịch nước ngoài khi được nhập vào quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp đặc biệt do Chủ tịch nước quyết định.
Như vậy vi quy định nhập quốc tịch Việt Nam hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo được quyền có quốc tịch của mỗi cá nhân, đồng thời cũng đáp ứng được lợi ích quốc gia.
- Trở lại quốc tịch Việt Nam: Trở lại quốc tịch Việt Nam, đây là trường hợp một ngừơi đã từng có quốc tịch Việt Nam, song vì một nguyên nhân nào đó mà mất quốc tịch, nay lại muốn xin trở lại quốc tịch Việt Nam (trở thành công dân Việt Nam). Trường hợp này còn gọi là phục hồi lại quốc tịch. Người đã mất quốc tịch Việt Nam do thôi quốc tịch; bị tước quốc tịch; theo điều ước quốc tế mà nhà nước Việt Nam đã ký kế hoặc tham gia...có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì có thể được trở lại quốc tịch Việt Nam, nếu thuộc một trong những trường hợp sau.
- Xin hồi hương về Việt Nam;
- Có vợ,chồng,con,cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam;
- Có công lao đóng góp cho sự nghiẹp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Viẹt Nam;
- Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam nếu làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam thì sẽ không được trở lại quốc tịch Việt Nam. Nếu người xin trở laị quốc tịch Việt Nam đáp ứng được các điều kiện trên thì sẽ duợc Chủ tịch nước ký quyết định cho trở lại quốc tịchViệt Nam, họ được hưởng các quyền và gánh vác nghĩa vụ của một công dân Việt Nam.
3. Mất quốc tịch Việt Nam:
Luật quy định công dân Việt Nam mất quốc tịch Việt Nam trong trường hợp sau:
- Được thôi quốc tịch Việt Nam;
- Bị tước quốc tịchViệt Nam;
- Theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia;...
Những truờng hợp sau không được thôi quốc tịch Việt Nam:
- Đang nợ thuế đôí với nhà nước hoặc một nghĩa vụ tài sản đối với cơ quan, tổ chức hoặc công dân;
- Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Chưa chấp hành song bản án, quyết định của tòa án Việt Nam.
- Ngoài ra luật còn quy định trường hợp người xin thôi quốc tịch Việt Nam nếu làm phương hại đến lợi ích quốc gia thì không được thôi quốc tịch. Cán bộ, công chức và những nguời đang phục vụ trong các lực lượng vũ trang nhân dân thì cũng không được thôi quốc tịch Việt Nam.
Tước quốc tịch Việt Nam, đó là truờng hợp công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài nếu có hành động làm phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam, đến uy tín của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hoặc những người được nhập quốc tịch Việt Nam dù cư trú ở trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam cũng sẽ có thể bị tước quốc tịch Việt Nam nếu có những hành vi tương tự...
Ngoài ra luật còn quy định một số vấn đề khác như việc thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi. Quy định các giấy tờ chững minh quốc tịch Việt Nam...
4. Quản lý nhà nước về quốc tịch
Theo luật các cơ quan sau đây có thẩm quyền giải quyết các vấn đề về quốc tịch:
- Quốc hội
- Chủ tịch nước
- Chính phủ
- Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Như vậy quốc tịch Việt Nam luôn là những vấn đề có tính pháp lý thời sự, vì vậy để đáp ứng với sự phát triển của xã hội trong tiến trình hội nhập, các chế định trong luật quốc tịch 1998 là cơ ở pháp lý cho nhà nước Việt Nam giải quyết vấn đề về quốc tịch Việt Nam.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
1. Phân tích khái niệm và đặc điểm của quốc tịch.
2. Trình bày các nguyên tắc xác định quốc tịch.
3. Những nội dung cơ bản của luật quốc tịch Việt Nam hiện hành.



CHƯƠNG IX
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN

1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là một chế định cơ bản, quan trọng của luật Hiến pháp. Vì đây là một trong những chế định thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước ta, mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân và các cá nhân trong xã hội. Thông qua chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp chúng ta có thể xác định được mức độ dân chủ của một xã hội. Vì thế các nhà lập pháp luôn quan tâm đến việc hoàn thiện chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong đạo luật cơ bản của Nhà nước.
Trước khi nghiên cứu khái niệm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chúng ta cần làm sáng tỏ một số vấn đề liên quan đến chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như khái niệm cá nhân, công dân và qui chế pháp lý của công dân.
Khái niệm công dân trước hết thể hiện tính chất đặc biệt của mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước với một số người nhất định.
- Công dân là sự xác định một thể nhân về mặt pháp lý thuộc về một Nhà nước nhất định. Khái niệm công dân gắn liền với khái niệm quốc tịch. Quốc tịch là mối liên hệ bền vững của một thể nhân với một Nhà nước nhất định.
- Cá nhân là một khái niệm bao gồm những người là công dân và cả những người không phải là công dân.
- Khái niệm công dân thể hiện mối quan hệ pháp lý có tính chất đặc biệt, tồn tại trong cả những trường hợp mà người công dân Việt Nam đã sinh sống ở nước ngoài nhưng vẫn còn mang quốc tịch Việt Nam.
- Địa vị pháp lý của công dân được hiểu là tổng thể các qui phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa một bên là xã hội, Nhà nước với một bên khác là công dân. Nội dung những qui phạm pháp luật tạo nên địa vị pháp lý của công dân phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi Nhà nước.
Phân tích qui chế pháp lý của công dân ta thấy nó bao gồm nhiều chế định khác nhau: quốc tịch, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của công dân, các quyền, tự do và nghĩa vụ pháp lý của công dân.
- Tổng thể các qui phạm pháp luật qui định về quyền và nghĩa vụ của công dân tạo nên qui chế pháp lý của công dân. Trong đó, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được qui định trong Hiến pháp đóng vai trò quan trọng nhất.
Phân tích các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ta thấy chúng có những đặc điểm sau đây:
- Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thường được xuất phát từ quyền của con người được sống, được tự do, không ai có thể xâm phạm và được mọi quốc gia trên thế giới thừa nhận.
- Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được qui định trong Hiến pháp - văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất.
- Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp là cơ sở chủ yếu để xác định địa vị pháp lý của công dân. Đó là cơ sở, nền tảng của mọi quyền và nghiă vụ khác của công dân.
- Các quyền và nghiã vụ cơ bản của công dân có nguồn gốc phát sinh các quyền và nghĩa vụ khác của công dân.
- Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thể hiện tính chất dân chủ, nhân đạo và tiến bộ của Nhà nước.
Nhìn vào các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ghi nhận trong Hiến pháp chúng ta có thể đánh giá mức độ dân chủ, nhân đạo, tiến bộ và mối quan hệ giữa Nhà nước, xã hội, cá nhân.
Như vậy, có thể hiểu quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là các quyền và nghĩa vụ được thể chế và ghi nhận trong Hiến pháp, đạo luật gốc của Nhà nước và xã hội. Đây là các quyền và nghĩa vụ cơ bản nhất, quan trọng nhất, là căn cứ và cơ sở pháp lý cao nhất cho sự ghi nhận và thể chế hoá các quyền và nghĩa vụ khác.
Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thể hiện mối quan hệ cơ bản nhất giữa Nhà nước và công dân ở trong các lĩnh vực đời sống xã hội quan trọng và cơ bản nhất. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân (Điều 51). Nhà nước đảm bảo cho các công dân những quyền lợi hợp pháp nhưng mặt khác cũng đòi hỏi mọi công dân phải thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình.
Các quyền công dân có mối quan hệ chặt chẽ với quyền con người. Trong khoa học pháp lý, các quyền con người được hiểu đó là những quyền mà pháp luật cần phải thừa nhận đối với tất cả các cá nhân. Đó là các quyền tối thiểu mà các cá nhân phải có, những quyền mà các nhà lập pháp không được xâm hại đến. Các quyền con người lần đầu tiên được trang trọng ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Bản tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền nổi tiếng của Pháp năm 1791 cũng khẳng định: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Quyền con người được pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia ghi nhận và bảo vệ.
Như vậy, về bản chất, quyền con người không chỉ thuần tuý là những quyền tự nhiên mà nó phải đặt trong tổng hoà các mối quan hệ xã hội, chịu sự ràng buộc xã hội, gắn với quá trình chinh phục tự nhiên và phát triển xã hội. Nói khác đi, không có xã hội con người thì cũng không có khái niệm quyền con người.
Quyền con người có những thuộc tính rất phức tạp và luôn thể hiện sự thống nhất giữa các mặt đối lập như sau:
- Quyền con người vừa là những giá trị vĩnh hằng vừa là những đại lượng biến đổi gắn với quá trình phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội của mỗi thời đại, mỗi quốc gia, dân tộc.
- Quyền con người vừa có tính phổ biến vừa có tính đặc thù.
- Quyền con người vừa là quyền của mỗi cá nhân con người với tư cách là thành viên của xã hội, vừa là quyền của tập thể, nhóm, giới cộng đồng dân tộc, quốc gia. Những quyền này không tách rời nghĩa vụ của cá nhân, tập thể trước Nhà nước, xã hội.
- Quyền con người vừa là quyền bình đẳng đối với mọi người, vừa là quyền ưu tiên của những nhóm, giới, những bộ phận nhất định trong xã hội.
- Quyền con người vừa có tính nhân loại vừa có tính giai cấp.
- Quyền con người là một phạm trù pháp lý, vì vậy nó phải được thể hiện trong pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Nếu quyền con người gắn liền với hệ thống pháp luật nhất định thì trong một quốc gia quyền con người được thể hiện chủ yếu ở quyền công dân và được qui định trong Hiến pháp và luật của quốc gia đó. Hiện nay, trong Hiến pháp của các quốc gia đều có chế định về quyền và nghĩa vụ công dân. So với khái niệm quyền con người, khái niệm quyền công dân mang tính xác định hơn, gắn với mỗi quốc gia, được pháp luật của mỗi quốc gia qui định.
2. Lịch sử phát triển của chế định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong lịch sử lập hiến ở nước ta.
Cho đến nay, Việt Nam đã có 4 bản Hiến pháp: Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 (Hiến pháp hiện hành).
Trong 4 bản Hiến pháp đó, chế định quyển và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn luôn giữ vị trí đặc biệt quan trọng, và trong đó các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được phát triển cả về tính chất, nội dung, mức độ lẫn phạm vi.
Đó không phải là điều ngẫu nhiên. Nó có cơ sở, nguồn gốc hết sức căn bản. Và chỉ thật sự hiểu đầy đủ về chính sách, những cơ sở, nguồn gốc đó mới có thể nắm được thực chất và đặc thù của những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp Việt Nam.
Các Hiến pháp 1959, 1980, 1992 đều khẳng định nhiệm vụ quan trọng của Hiến pháp và qui định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Việc xác lập, thực hiện và phát triển các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp Việt Nam có những đặc trưng thể hiện tính qui luật của quá trình xã hội này. Chúng vừa phản ánh những ảnh hưởng phát triển khách quan của xã hội hiện đại vừa thể hiện những sắc thái của dân tộc Việt Nam và con người Việt Nam.
- Trong bốn bản Hiến pháp, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được tôn trọng và thể hiện nhất quán, là nội dung cơ bản của mỗi bản Hiến pháp, xuyên suốt toàn bộ nội dung của Hiến pháp. Điều đó khẳng định chế độ xã hội mà nhân dân ta xây dựng là chế độ tôn trọng quyền công dân, có những tiền đề về đảm bảo pháp lý cao nhất cho việc thực hiện quyền công dân.
- Hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp ở nước ta được xác định một cách rộng rãi và mang tính chất tiên tiến.
- Về phương diện quyền và nghĩa vụ Hiến định, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ngày càng được mở rộng và hoàn thiện hơn trong các bản Hiến pháp.
- Sự sửa đổi, bổ sung về nội dung và hình thức thể hiện ở các qui định về quyền và nghĩa vụ công dân trong 4 bản Hiến pháp thể hiện sự phát triển, hoàn thiện các đảm bảo pháp lý thực hiện quyền con người ở nước ta.
- Nội dung các quyền và nghĩa vụ của công dân không những được qui định trong Hiến pháp mà còn phải được qui định và cụ thể hoá trong các văn bản luật, đồng thời phải được qui định chi tiết, hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật mới tạo thành hệ thống đảm bảo pháp lý ổn định, thống nhất đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật.
- Quá trình xây dựng đảm bảo pháp lý thực hiện quyền công dân ở nước ta từ Hiến pháp 1946 đến nay cho thấy nội dung quyền công dân không những được qui định càng đầy đủ, cụ thể trong các Hiến pháp mà số lượng các quyền qui định trong Hiến pháp được cụ thể hoá trong các Bộ luật, Luật ngày càng tăng, nhất là từ khi ban hành Hiến pháp 1992 tới nay.
3. Các nguyên tắc hiến pháp về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là một chế định quan trọng của Luật hiến pháp. Đó là những tư tưởng chỉ đạo, những quan điểm cơ bản được quán triệt trong việc xây dựng những qui định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và những đảm bảo thể hiện một cách rõ nét nhất, cụ thể nhất và cô đọng nhất bản chất của một chế độ nhà nước và chế độ xã hội.
Chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 của nước ta được thiết lập và xây dựng theo các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc tôn trọng quyền con người.
- Nguyên tắc nhân đạo.
- Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
- Nguyên tắc quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.
- Nguyên tắc về tính hiện thực và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Dựa vào nội dung các quyền và nghĩa vụ hiến pháp của công dân được phân thành các nhóm sau:
1. Các quyền và nghĩa vụ về chính trị;
2. Các quyền và nghĩa vụ về dân sự ;
3. Các quyền và nghiã vụ về kinh tế;
4. Các quyền và nghĩa vụ về xã hội;
5. Các quyền và nghĩa vụ về văn hoá;
6. Các quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
1. Nêu khái niệm, đặc điểm, ý nghĩ quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
2. Trình bày khái quát lịch sử phát triển của chế định về quyền và nghĩa vụ cơ bản trong lịch sử lập hiến ở nước ta.
3. Nêu các nguyên tắc hiến pháp về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
4. Trình bày việc phân loại các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

CHƯƠNG X
KHÁI QUÁT VỀ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Khái niệm và đặc điểm của bộ máy nhà nước Việt Nam
1.1. Định nghĩa bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước là một trong những vấn đề rất cơ bản thuộc đối tượng của khoa học luật Hiến pháp Việt Nam. Việc nghiên cứu bộ máy nhà nước một mặt góp phần làm sáng tỏ bản chất của Nhà nước ta, mặt khác tạo cơ sở và căn cứ để không ngừng hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nó.
Trong hệ thống chính trị của nước ta, Nhà nước luôn luôn giữ vị trí trung tâm, là công cụ cực kỳ quan trọng và có hiệu lực nhất để tiến hành và thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, tăng cường và hoàn thiện bộ máy nhà nước là vấn đề luôn luôn được quan tâm một cách đặc biệt.
Nói đến hoạt động của bộ máy Nhà nước là nói đến hoạt động của các bộ phận cấu thành Nhà nước, do con người tiến hành một cách có tổ chức. Nhưng tính chất hoạt động của các bộ phận cấu thành Nhà nước không giống như tính chất hoạt động của các bộ phận cấu thành của một tổ chức xã hội khác mặc dù hoạt động của mọi tổ chức đều do con người tiến hành vì những mục đích cụ thể nhất định. Hoạt động của các bộ phận cấu thành Nhà nước luôn luôn mang tính quyền lực đặc biệt. Đó là hoạt động mang tính cưỡng chế, được thực hiện bởi các quyết định mà những người có liên quan bắt buộc phải thi hành.
Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một hệ thống bao gồm các cơ quan nhà nước với vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành một thể thống nhất nhằm thực hiện chức năng chung của Nhà nước.
1.2. Phân loại các cơ quan nhà nước
Bộ máy nhà nước bao gồm nhiều cơ quan khác nhau, được thành lập nhiều cách khác nhau và có vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau. Để phân loại các cơ quan nhà nước, người ta có nhiều cách khác nhau, dựa vào những căn cứ khác nhau.
Hiện nay, ở nước ta có hai cách phân loại phổ biến thường được áp dụng khi nghiên cứu về các cơ quan nhà nước.
- Cách phân loại thứ nhất: căn cứ vào cách thức thành lập cũng như vị trí; chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan. Theo cách phân loại này thì các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước ta được phân chia thành các hệ thống cơ quan sau:
- Thứ nhất là hệ thống các cơ quan đại diện (còn được gọi là các cơ quan quyền lực nhà nước). Hệ thống các cơ quan này bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp (Hội đồng nhân dân tỉnh, huyện, xã và tương đương).
- Thứ hai là hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước (còn gọi là các cơ quan chấp hành hoặc cơ quan hành chính nhà nước). Đó là Chính phủ, các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các Uỷ ban nhân dân và các ban ngành trực thuộc.
- Thứ ba là hệ thống các cơ quan xét xử, bao gồm Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân cấp tỉnh, các Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án quân sự các cấp. Xét xử là chức năng duy nhất của hệ thống cơ quan này.
- Thứ tư là hệ thống các cơ quan kiểm sát, bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, các Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và Viện kiểm sát quân sự các cấp.
2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những tư tưởng chỉ đạo quá trình tổ chức và hoạt động của nó. Không phải bộ máy nhà nước nào cũng được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc giống nhau, mà điều này hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất giai cấp của từng Nhà nước cụ thể. Bất kỳ Nhà nước nào cũng đều là tổ chức chính trị do giai cấp thống trị trong xã hội thành lập ra để thực hiện quyền lực của mình. Mỗi một giai cấp đều có mục đích và lợi ích riêng cụ thể. Để đạt được mục đích ấy, giai cấp nào cũng đòi hỏi Nhà nước do mình thành lập ra phải hoạt động theo những tư tưởng chỉ đạo của mình, phù hợp lợi ích chung của giai cấp.
Các nguyên tắc này được quy định cụ thể và chi tiết trong Hiến pháp và các luật tổ chức của Nhà nước ta.
2.1. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Để đảm bảo và thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” (Điều 8). Những quy định này cũng đã thể hiện đầy đủ và rõ nét bản chất của dân, do dân và vì dân của Nhà nước ta.
2.2. Nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Để nhận thức một cách đầy đủ và chính xác bản chất giai cấp của một Nhà nước, vấn đề cơ bản là phải xác định được Nhà nước đó do đảng của giai cấp nào lãnh đạo. Vai trò và vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được quy định trong cả bốn bản Hiến pháp của Nhà nước ta. Điều 4 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghía Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Quy định vai trò lãnh đạo của Đảng trong luật cơ bản của Nhà nước là xác lập một được cơ bản nhằm bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
2.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Bất kỳ thời đại nào, quá trình quản lý xã hội và quản lý nhà nước đều đòi hỏi phải có sự tập trung quyền lực. Đây là yếu tố bắt buộc nhằm điều khiển được toàn bộ các hoạt động xã hội, thiết lập một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị xã hội. Nhưng nội dung của sự tập trung trong các chế độ xã hội và chế độ nhà nước lại hoàn toàn không giống nhau, mà phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội và chế độ nhà nước. Ví dụ, trong chế độ phong kiến, quyền lực thuộc về một ông vua…
Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa chế độ tập trung và chế độ dân chủ. Do vậy, bất kỳ sự nhấn mạnh hay coi nhẹ một mặt nào của nguyên tắc này cũng sẽ dẫn đến sự thiếu hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
2.4. Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc
Vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề sống còn của các quốc gia. Một chế độ ổn định và bền vững phải là một chế độ giải quyết tốt vấn đề dân tộc. Lịch sử phát triển của các quốc gia cho thấy quốc gia nào không có chính sách dân tộc đúng đắn thì không thể tạo ra sự ổn định xã hội và dẫn đến sự diệt vong của chế độ.
Điều 5 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào thiểu số”.
2.5. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước là có pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật. Điều 12 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân đều bị xử lý theo pháp luật”.
3. Sự phát triển của bộ máy nhà nước ta qua các Hiến pháp
3.1. Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1946
Bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1946 được phân thành năm cấp quản lý hành chính: cấp Trung ương, cấp bộ (Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ), cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã (Điều 57).
Căn cứ vào các quy định của Hiến pháp, chúng ta có thể chia bộ máy nhà nước ta thành các hệ thống sau:
- Thứ nhất là hệ thống các cơ quan đại diện, gồm có Nghị viện nhân dân (tức Quốc hội) và Hội đồng nhân dân các cấp do đầu phiếu phổ thông, trực tiếp bầu ra.
- Thứ hai là hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, bao gồm Chính phủ và Uỷ ban hành chính các cấp.
- Thứ ba là hệ thống các cơ quan tư pháp gồm có Toà án tối cao, các Toà án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp (Điều 63). Hệ thống công tố lúc này không được tổ chức độc lập mà nằm trong cơ cấu của hệ thống Toà án. Các nhân viên tư pháp đều do Chính phủ bổ nhiệm (Điều 64).
3.2. Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1959
Theo Điều 78 Hiến pháp năm 1959 thì các đơn vị hành chính trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được phân chia như sau:
- Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Tỉnh chia thành huyện, thành phố (thuộc tỉnh), thị xã;
- Huyện chia thành xã, thị trấn.
Theo Hiến pháp năm 1959, bộ máy nhà nước ta được tổ chức trên cơ sở nguyên tắc lãnh thổ, phân chia thành bốn hệ thống cơ quan rõ rệt.
- Thứ nhất là hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước, bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
- Thứ hai là hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước, bao gồm Hội đồng Chính phủ và Uỷ ban hành chính các cấp.
- Thứ ba là hệ thống cơ quan xét xử, bao gồm Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương và các Toà án quân sự. Như vậy điểm khác nhau căn bản trong quy định về hệ thống các cơ quan xét xử tại Hiến pháp năm 1959 so với Hiến pháp năm 1946 là chúng không được tổ chức thuần tuý theo cấp xét xử, mà kết hợp giữa cấp xét xử và nguyên tắc lãnh thổ.
- Thứ tư là hệ thống các cơ quan kiểm sát, bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và các Viện kiểm sát quân sự. Đây là hệ thống cơ quan hoàn toàn mới mà Hiến pháp năm 1946 không đề cập đến.
3.3. Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1980
Về căn bản, bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1980 vẫn dựa trên cơ sở của bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1959, nhưng được hoàn thiện và phát triển cao hơn, phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới cũng như quan điểm về làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa.
Theo Hiến pháp năm 1980, bộ máy nhà nước ta cũng được chia thành 4 hệ thống cơ quan, được tổ chức 4 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện và xã (Điều 113).
Thứ nhất là hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước, bao gồm Quốc hội, Hội đồng Nhà nước và Hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã và tương đương).
Thứ hai là hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước, gồm Hội đồng Bộ trưởng và các Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã (tương đương).
- Thứ ba là hệ thống các cơ quan xét xử, bao gồm Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân các cấp và Toà án quân sự.
- Thứ tư là hệ thống các cơ quan kiểm sát, bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và các Viện kiểm sát quân sự.
3.4. Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1992
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ đổi mới toàn diện.
Tháng 4 năm 1992, Quốc hội khoá VIII đã thông qua Hiến pháp mới. Theo Hiến pháp này, bộ máy nhà nước ta vẫn được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản được xác định tại Hiến pháp năm 1980. Trên cơ sở khẳng định nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, tập trung vào tay nhân dân, bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1992 vẫn được chia thành 4 hệ thống:
- Thứ nhất là hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước, bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc bầu cử dân chủ.
- Thứ hai là hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước, bao gồm Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp.
- Thứ ba là hệ thống các cơ quan xét xử, bao gồm Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương và các Toà án quân sự. Sự khác biệt căn bản giữa các quy định về hệ thống các cơ quan xét xử trong Hiến pháp năm 1992 so với Hiến pháp năm 1980 là chế độ thẩm phán bầu được thay thế bởi chế độ thẩm phán bổ nhiệm.
- Thứ tư là hệ thống các cơ quan kiểm sát, bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và các Viện kiểm sát quân sự.
3.5. Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X; kỳ họp thứ 10)
Ngày 19 tháng 11 năm 2001, Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã ra kết luận về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, nêu rõ việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 phải quán triệt các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo sau:
1. Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 của Đảng và Hiến pháp năm 1992.
2. Bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
3. Chỉ sửa đổi, bổ sung một số vấn đề thực sự bức xúc, đã có đủ cơ sở và có sự thống nhất cao; không đặt vấn đề sửa đổi cơ bản, toàn diện Hiến pháp.
Đối với từng cơ quan cụ thể trong bộ máy nhà nước, kết luận của Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX chỉ rõ:
Về Quốc hội, cần tiếp tục khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về Chủ tịch nước, cần tiếp tục khẳng định Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội, đối ngoại.
Về Chính phủ, tiếp tục khẳng định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, cần tiếp tục khẳng định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân.
Về Toà án nhân dân, giữ nguyên quy định về chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc xét xử của Toà án nhân dân trong Hiến pháp năm 1992. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật tố tụng để thực hiện thủ tục rút gọn đối với những vụ án hình sự đơn giản, rõ ràng, ít nghiêm trọng hoặc một số tranh chấp dân sự, kinh tế, hành chính không phức tạp.
Về Viện kiểm sát nhân dân, cần sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo hướng Viện kiểm sát nhân dân chỉ thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Ngày 25 tháng 12 năm 2001, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá X đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” Điều 2.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
1. Sự khác nhau giữa cơ quan nhà nước và cơ quan thuộc tổ chức chính trị - xã hội?
2. Sự giống nhau và khác nhau của các hệ thống cơ quan nhà nước giữa các Hiến pháp? Lý do?
3. Tính liên tục, tính kế thừa và tính nhất quán trong quy định về bộ máy nhà nước của 4 Hiến pháp?
CHƯƠNG XI
CHẾ ĐỘ BẦU CỬ
1. Khái niệm chế độ bầu cử và pháp luật về bầu cử nước ta
1.1. Khái niệm chế độ bầu cử
Bầu cử nói chung, đó là việc lựa chọn người đảm nhiệm một chức trong một tổ chức của xã hội thông qua sự biểu thị ý chí của các thành viên tổ chức theo các quy định nhất định. Các tổ chức của xã hội như: nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội …đều có thể có việc bầu cử. Đương nhiên, bầu cử không phải là phương thức duy nhất để đưa người vào một chức trong các tổ chức mà còn có các phương thức khác như: bổ nhiệm, thừa kế…
Trong luật Hiến pháp, bầu cử là một chế định (chế độ) về việc nhân dân lập ra các cơ quan nhà nước để thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước. Ở nước ta, chế độ bầu cử bao gồm tổng thể các quy định của nhà nước về việc bầu đại biểu vào các cơ quan đại diện Quốc hội và Hội đồng nhân dân, bao gồm các vấn đề về nguyên tắc bầu cử, bầu cử và ứng cử, vận động bầu cử, tổ chức và trình tự - thủ tục bầu cử, bãi nhiệm đại biểu, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý các sai lệch ảnh hưởng đến kết quả bầu cử là hậu quả do vi phạm pháp luật gây ra. Tất cả các quy định này tạo thành chế định bầu cử thuộc ngành luật Hiến pháp. Đối với một số nước, chế độ bầu cử không chỉ bao gồm các quy định pháp luật về bầu cử mà còn cả các thói quen được xã hội thừa nhận trong quá trình bầu cử.
Bầu cử để lập ra các cơ quan nhà nước đã là phương thức gắn liền với sự tồn tại bộ máy nhà nước. Lịch sử cho thấy, ngay trong những nhà nước chiếm hữu nô lệ được tổ chức theo hình thức cộng hoà quý tộc đã xuất hiện việc bầu cử. Trong chế độ phong kiến, việc bầu cử hầu như bị loại bỏ. Đến chế độ tư bản, cùng với việc xác lập chế độ dân chủ thì bầu cử lại trở thành phương thức phổ biến và cơ bản để hình thành bộ máy nhà nước theo nguyên tắc chủ quyền thuộc về nhân dân. Sau cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa với tư cách là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử, được xây dựng trên chế độ dân chủ về nguyên tắc là chế độ dân chủ cao nhất và cuối cùng trong lịch sử tiếp tục thực hiện chế độ bầu cử và ngày càng hoàn thiện nó ở tầm cao hơn.
Sự hiện diện chế độ bầu cử là sự phản ánh tính dân chủ, vì không có dân chủ thì không thể có việc bầu cử. Dân chủ càng thực chất và càng cao thì chế độ bầu cử càng có vị thế cao trong đời sống chính trị và sự phát triển xã hội. Nó biểu hiện trong khả năng lựa chọn được những người thực sự có tài năng, phẩm chất và có uy tín vào các chức quan trọng của bộ máy nhà nước, trong việc thực hiện nghiêm túc trách nhiệm của người được bầu đối với nhân dân…
Đối với mỗi quốc gia, việc bầu cử được tiến hành với các cơ quan nhà nước nào là tuỳ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội, học thuyết chính trị – pháp lý chính thống, sự đòi hỏi của nhân dân, sự tiếp thu các yếu tố dân chủ tiến bộ, sự kế thừa và các yếu tố khác. Ở các nước tư bản, bầu cử được sử dụng trong việc lập ra nhiều cơ quan. Ngoài các nghị viện, hội đồng địa phương, cử tri còn có thể bầu tổng thống, thị trưởng…Trong các nước xã hội chủ nghĩa, việc bầu cử hầu như chỉ áp dụng đối với các cơ quan đại diện quyền lực nhà nước là quốc hội, hội đồng nhân dân (có thể tên gọi khác).
1.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật bầu cử
Chế độ bầu cử hiện nay ở nước ta là kết quả của quá trình phát triển của gần 60 năm kể từ thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Chỉ mấy ngày sau khi giành được chính quyền, ngày 8 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ký Sắc lệnh số 14 về việc tuyển cử bầu Quốc dân đại hội. Sắc lệnh gồm 7 điều, trong đó quy định rằng sẽ tổng tuyển cử để bầu Quốc dân đại hội. “Tất cả công dân Việt Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền tuyển cử và ứng cử, trừ những người đã bị tước mất công quyền và những người trí óc không bình thường”. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên về bầu cử trong chế độ mới, đồng thời nó cũng đánh dấu sự xuất hiện lần đầu tiên ở nước ta một chế độ bầu cử dân chủ rộng rãi. Trên cơ sở Sắc lệnh đó, Sắc lệnh số 51 ngày 17 tháng 10 năm 1945 đã quy định cụ thể về việc bầu cử. Những nội dung chủ yếu của Sắc lệnh là: tất cả những công dân Việt Nam 18 tuổi trở lên không phân biệt nam nữ đều có quyền bầu cử và ứng cử, trừ ra những người người điên, những người hành khất chuyên môn, người do một hội thiện nào nuôi vĩnh viễn, người bị can án mà không được hưởng sắc lệnh đại xá của Chính phủ; đơn vị bầu cử được xác định là tỉnh và sáu thành phố. Công dân được tự do ứng cử và được vận động tuyển cử theo thể thức quy định mà nguyên tắc căn bản là vận động bầu cử không được trái với nền dân chủ cộng hoà; quy định về các tổ chức tiến hành bầu cử và trình tự – thủ tục bầu cử; về kiểm tra và giải quyết khiếu nại trong bầu cử…Những nguyên tắc cơ bản của bầu cử được xác định là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Trong cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946 theo quy định của Sắc lệnh kể trên, công dân Việt Nam trong cả nước đã bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - Hiến pháp 1946 tiếp theo tinh thần của chế độ bầu cử trong Sắc lệnh số 51 đã xác định chế độ bầu cử nước ta là phổ thông đầu phiếu, bỏ phiếu tự do, trực tiếp và kín (Điều 17). Tất cả công dân Việt Nam, kể cả quân nhân, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người mất quyền công dân. Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ (Điều 18).
Sau các văn bản pháp luật ghi nhận chế độ độ bầu cử nói trên, cùng với các bản Hiến pháp được ban hành thay thế nhau là Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992, các văn bản pháp luật về bầu cử cũng được ban hành thay thế nhau để cụ thể hoá các quy định cơ bản về bầu cử của Hiến pháp hoặc điều chỉnh cho phù hợp với các điều kiện mới. Đó các văn bản pháp luật chủ yếu về bầu cử Quốc hội: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội ngày 31 tháng 12 năm 1959, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội ngày 18 tháng 12 năm 1980, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội ngày 15 tháng 4 năm 1992, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội ngày 15 tháng 4 năm 1997 với những sửa đổi, bổ sung theo Luật về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử bảo đảm Quốc hội ngày 25 tháng 12 năm 2001 và các văn bản pháp luật chủ yếu về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân: Pháp lệnh quy định thể lệ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ngày 18 tháng 1 năm 1961, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều khoản sửa đổi và bổ sung một số điều khoản của Pháp lệnh năm 1961 ngày 22 tháng 1 năm 1981, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ngày 26 tháng 12 năm 1983, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ngày 30 tháng 6 năm 1989, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ngày 21 tháng 6 năm 1994 và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003.
Trong quá trình phát triển pháp luật về bầu cử đại biểu các cơ quan dân cử, nhìn tổng thể, các nguyên tắc bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín luôn được quán triệt và tôn trọng. Các quy định pháp luật về bầu cử được điều chỉnh theo hướng ngày càng hoàn thiện.
2. Các nguyên tắc bầu cử
Các nguyên tắc bầu cử là những tư tưởng được quán triệt trong các quy định về bầu cử, phản ánh tính chất của chế độ bầu cử. Phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín là các nguyên tắc bầu cử tiến bộ được áp dụng phổ biến trong các nhà nước hiện đại. Đó là kết quả của quá trình xác lập và phát triển dân chủ thể hiện xu hướng tất yếu của sự phát triển của văn minh nhân loại. Đương nhiên, việc áp dụng các nguyên tắc trên đây ở các nước không hoàn toàn giống nhau do các điều kiện cụ thể của mỗi nước. Có nước áp dụng một cách cởi mở, có nước áp dụng hạn chế hơn các nguyên tắc này liên quan đến các đòi hỏi về quyền bầu cử, ứng cử theo thời hạn cư trú, tuổi, giới tính, bầu cử gián tiếp…Ở nước ta, sự hình thành chế độ bầu cử đồng thời cũng là sự ghi nhận các nguyên tắc bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Trong sự phát triển chế độ bầu cử, các nguyên tắc này càng được thể hiện đầy đủ và dân chủ hơn. Điều 7 của Hiến pháp 1992 xác định rằng: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”.
2.1. Nguyên tắc bầu cử phổ thông
Bầu cử phổ thông được hiểu là quyền bầu cử và quyền ứng cử được áp dụng rộng rãi với mọi người dân, giảm thiểu tối đa đối với việc các hạn ché trong việc thực hiện quyền này. Nguyên tắc bầu cử phổ thông thể hiện tính chất toàn dân của chế độ bầu cử. Về nguyên tắc, chế độ bầu cử phổ thông càng được áp dụng rộng rãi bao nhiêu thì cơ sở xã hội của nhà nước càng rộng rãi, sự ủng hộ của dân chúng đối với nhà nước càng lớn. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, vì thế, pháp luật quy định rộng rãi quyền bầu cử, ứng cử đối với mọi người. Hiến pháp 1992 đã quy định: “Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật” (Điều 54).
Việc hạn chế quyền bầu cử, ứng cử chỉ được áp dụng với những người đang ở trong tình trạng nhất định. Theo pháp luật hiện hành thì những người sau đây không được thực hiện quyền bầu cử: người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự[2].
Những người trên đây, nếu đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu hai mươi bốn giờ mà được khôi phục lại quyền bầu cử, được trả tự do hoặc được cơ quan có thẩm quyền xác nhận không còn trong tình trạng mất năng lực hành vi dân sự thì được bổ sung vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri. Những người đã có tên trong danh sách cử tri mà đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị Toà án tước quyền bầu cử, phải chấp hành án phạt tù hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự thì bị xoá tên trong danh sách cử tri và thu hồi thẻ cử tri.
Những người không được thực hiện quyền ứng cử là những người sau đây:
a. Người ở vào tình trạng bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, đang phải chấp hành hình phạt tù, đang bị tạm giam và mất năng lực hành vi dân sự;
b. Người đang bị khởi tố về hình sự;
c. Người đang phải chấp hành bản án, quyết định hình sự của Toà án;
d. Người đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của Toà án nhưng chưa được xoá án tích;
đ. Người đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính về giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh hoặc đang bị quản chế hành chính.
Những người đã có tên trong danh sách ứng cử mà đến thời điểm bắt đầu bầu cử thì bị khởi tố về hình sự, bị bắt giữ vì phạm tội quả tang hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự thì bị xoá tên trong danh sách ứng cử.
Như thế, các trường hợp hạn chế quyền ứng cử rộng hơn các trường hợp hạn chế quyền bầu cử.
Ngoài nội dung trên đây, nguyên tắc bầu cử phổ thông còn được thể hiện ở các bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc này như: công bố công khai danh sách cử tri và danh sách người ứng cử trước khi bắt đầu bầu cử một thời hạn cần thiết, công bố công khai ngày bỏ phiếu và nơi bỏ phiếu, bảo đảm để những cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được cũng thực hiện được quyền bầu cử, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các khâu của quá trình bầu cử…
2.2. Nguyên tắc bầu cử bình đẳng
Nguyên tắc bình đẳng trong bầu cử được hiểu là mọi công dân có khả năng tham gia bầu cử với các điều kiện như nhau, không có sự phân biệt. Đây là sự thể hiện bản chất của chế độ xã hội, không chấp nhận sự phân biệt đẳng cấp, coi trọng giá trị con người, khả năng tham gia vào đời sống chính trị như nhau của công dân.
Nguyên tắc bình đẳng thể hiện trên nhiều khía cạnh:
a. Công dân có quyền bầu cử và ứng cử như nhau, không có sự phân biệt;
b. Mỗi cử tri chỉ có một phiếu bầu;
c. Mỗi cử tri chỉ được bầu ở một nơi;
d. Giá trị của mỗi lá phiếu bầu như nhau;
đ. Người ứng cử chỉ được ứng cử ở một nơi;
e. Trong cùng một điều kiện, số dân như nhau thì được bầu số đại biểu như nhau;
g. Bảo đảm các dân tộc thiểu số và phụ nữ có số đại biểu thích đáng trong cơ cấu cơ quan dân cử.
2.3. Nguyên tắc bầu cử trực tiếp
Bầu cử trực tiếp có nghĩa là công dân trực tiếp bầu ra các đại biểu vào cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân), không qua khâu trung gian nào. Bầu cử theo nguyên tắc này khác với việc bầu cử gián tiếp, theo đó, công dân trực tiếp bầu ra những người thay mình là đại cử tri hoặc là một cơ quan đại diện, sau đó đại cử tri hoặc cơ quan đại diện để bầu ra một cơ quan nhà nước khác (như tổng thống, cơ quan đại diện cấp cao hơn…).
Bầu trực tiếp thể hiện là cách thức bầu có ưu thế hơn so với bầu gián tiếp ở chỗ, công dân biểu lộ trực tiếp ý chí của mình đối với người được bầu, loại trừ khả năng bị các khâu trung gian có thể làm sai lệch mong muốn của mình. Theo nghĩa đó, nguyên tắc bầu cử trực tiếp là nguyên tắc bảo đảm tính khách quan trong bầu cử. Ngoài ra, bầu cử trực tiếp làm cho mối quan hệ trách nhiệm giữa người được bầu và cử tri trở nên rõ ràng hơn.
2.4. Nguyên tắc bỏ phiếu kín
Đây là nguyên tắc bảo đảm cho cử tri thể hiện tự do ý chí trong việc lựa chọn người đại biểu, không bị các tác động, áp lực từ phía người khác. So với việc bỏ phiếu công khai rõ ràng việc bỏ phiếu kín bảo đảm tính khách quan của bầu cử cao hơn.
Bầu cử theo nguyên tắc bỏ phiếu kín được thể hiện ở các mặt:
a. Có nơi để công dân viết phiếu bảo đảm để không ai có thể biết họ đã bầu như thế nào;
b. Phiếu bầu không có dấu hiệu nào để biết ai là người chủ của lá phiếu đó;
c. Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì có thể nhờ người khác viết hộ. Người viết hộ phải phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri;
d. Khi cử tri viết phiếu, không ai được xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử.
3. Các quy định pháp luật về tổ chức bầu cử
3.1. Quy định về số đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân
Theo pháp luật bầu cử nước ta, có hai cơ quan được cử tri bầu là Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Pháp luật bầu cử quy định số đại biểu cần thiết cho Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, bảo đảm cho các tầng lớp dân cư có được người đại diện của mình trong các cơ quan này.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội hiện hành thì tổng số đại biểu Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không quá 500 người. Đối với Hội đồng nhân dân các cấp, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 2003 quy định số đại biểu cho Hội đồng nhân dân căn cứ vào số lượng dân cư, đặc điểm địa lý, đặc điểm kinh tế - xã hội, số đơn vị hành chính:
a. Hội đồng nhân dân cấp xã (xã, phường, thị trấn) được bầu từ 25 đến 35 đại biểu.
b. Hội đồng nhân dân cấp huyện (huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) được bầu từ 30 đến 40 đại biểu. Nơi nào có trên 30 đơn vị hành chính trực thuộc thi được bầu trên 40 đại biểu.
c. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) được bầu từ 50 đến 85 đại biểu. Thủ đô Hà Nội và các thành phố trực thuộc trung ương có trên 3 triệu người được bầu không quá 95 đại biểu.
Căn cứ vào số lượng đại biểu được bầu, pháp luật bầu cử quy định việc bảo đảm tỷ lệ đại diện hợp lý các tầng lớp dân cư trong tổng số lượng đại biểu đó.
3.2. Đơn vị bầu cử và khu vực bỏ phiếu
Đại biểu các cơ quan Quốc hội, Hội đồng nhân dân được bầu theo đơn vị bầu cử. Đơn vị bầu cử là địa bàn bao gồm một hoặc một số đơn vị hành chính với số lượng dân cư nhất định để bầu ra một số đại biểu phù hợp. Việc chia ra các đơn vị bầu cử và số đại biểu được bầu trong mỗi đơn vị phải hợp lý và phù hợp với nguyên tắc bầu cử bình đẳng.
Trong bầu cử đại biểu Quốc hội, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được chia thành các đơn vị bầu cử. Số đơn vị bầu cử, danh sách các đơn vị và số đại biểu của mỗi đơn vị được tính căn cứ theo số dân do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định. Mỗi đơn vị bầu cử được bầu không quá 3 đại biểu.
Đối với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào, Uỷ ban nhân dân cấp ấy ấn định danh sách các đơn vị bầu cử và số đại biểu được bầu của mỗi đơn vị với sự phê chuẩn của Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp, đối với cấp tỉnh, cấp phê chuẩn là Chính phủ. Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được bầu không quá 5 đại biểu.
Khu vực bầu cử là bộ phận địa bàn được chia ra từ đơn vị bầu cử với một số cử tri nhất định để cử tri thực hiện việc bầu đại biểu. Việc chia khu vực bỏ phiếu bầu cử do Uỷ ban nhân dân cấp xã ấn định và phải được Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Mỗi đơn vị bầu cử được chia ra thành nhiều khu vực bỏ phiếu. Mỗi khu vực bỏ phiếu có từ 300 đến 2.000 cử tri đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, từ 300 đến 4.000 cử tri đối với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Ở miền núi, hải đảo và những nơi dân cư không tập trung thì dù chưa có tới 300 cử tri cũng được thành lập một khu vực bỏ phiếu.
Các khu vực bỏ phiếu riêng cũng có thể được thành lập ở các đơn vị vũ trang nhân dân, ở bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà an dưỡng, nhà nuôi người tàn tật có từ 50 cử tri trở lên, ở cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh đối với những người đang chấp hành quyết định xử lý hành chính.
3.3. Các tổ chức phụ trách bầu cử.
Các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu gồm có: Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử, Ban bầu, Tổ bầu cử.
3.3.1. Hội đồng bầu cử là tổ chức phụ trách việc bầu cử cao nhất thực hiện vai trò lãnh đạo, chỉ đạo các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Hội đồng bầu cử trung ương trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập có từ 15 đến 21 người, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và các uỷ viên là đại diện Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một số cơ quan, tổ chức hữu quan. Hội đồng bầu cử trong cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp do Uỷ ban nhân dân sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thành lập, gồm đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội. Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có từ 15 đến 21 người, cấp huyện từ 11 đến 15 người, cấp xã từ 9 đến 11 người.
Hội đồng bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: lãnh đạo (đối với Hội đồng bầu cử trung ương), chỉ đạo (đối với Hội đồng bầu cử Hội đồng nhân dân) việc tổ chức bầu cử; kiểm tra, đôn đốc việc thi hành các quy định của pháp luật về bầu cử; chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội trong cuộc bầu cử; công bố danh sách những người ứng cử đại biểu; giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác của các tổ chức phụ trách bầu cử; nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử do tổ chức phụ trách bầu cử (Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử) gửi đến; xét và quyết định việc bầu cử lại, bầu cử thêm; tổng kết và công bố kết quả bầu cử…
3.3.2. Uỷ ban bầu cử là tổ chức phụ trách bầu cử được thành lập ở cấp tỉnh chỉ trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội. Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập Uỷ ban bầu cử từ 7 đến 11 người, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Thư ký và các uỷ viên là đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, một số cơ quan, tổ chức hữu quan.
Uỷ ban bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn chỉ đạo việc chuẩn bị và tổ chức bầu cử ở các đơn vị bầu cử; kiểm tra, đôn đốc việc thi hành những quy định của pháp luật về bầu cử; chỉ đạo thực hiện công tác bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội trong cuộc bầu cử ở địa phương; kiểm tra việc lập và niêm yết danh sách cử tri; lập danh sách những người ứng cử theo đơn vị bầu; nhận và xem xét hồ sơ của người được giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử, gửi danh sách trích ngang và tiểu sử tóm tắt của những người được giới thiệu ứng cử và những người tự ứng cử đến Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh; xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử; thông báo kết quả bầu cử ở địa phương…
3.3.3. Ban bầu cử
Ban bầu cử được thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử, là tổ chức phụ trách bầu cử ở mỗi đơn vị bầu cử gồm đại diện một số các cơ quan, tổ chức. Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân và Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử. Trong cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết định thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử .
Ban bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn kiểm tra, đôn đốc việc thi hành các quy định của pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội của các Tổ bầu cử; kiểm tra, đôn đốc việc bố trí các phòng bỏ phiếu; kiểm tra việc lập và niêm yết danh sách cử tri; niêm yết danh sách những người ứng cử trong đơn vị bầu cử; kiểm tra công việc bầu cử tại các phòng bỏ phiếu; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định; làm biên bản xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử để gửi đến Hội đồng bầu cử (đối với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân), gửi đến Hội đồng bầu cử và Uỷ ban bầu cử (đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội), đồng thời thông báo kết quả đó…
Tổ bầu cử được thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu. Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, Tổ bầu cử gồm đại diện Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và đại diện cử tri ở địa phương được Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập. Trong cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Tổ bầu cử được Uỷ ban nhân dân cấp xã quyết định thành lập sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và ban thường trực Uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, gồm đại diện các tổ chức xã hội và tập thể cử tri ở địa phương.
Đơn vị vũ trang nhân dân thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu của mình một Tổ bầu hoặc phối hợp với địa phương để lập ra Tổ bầu cử trong trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có chung một khu vực bỏ phiếu.
Tổ bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn phụ trách công tác bầu cử trong khu vực bỏ phiếu; bố trí phòng bỏ phiếu, chuẩn bị hòm bỏ phiếu, phát thẻ cử tri; kiểm phiếu và làm biên bản kết quả kiểm phiếu để gửi đến Ban bầu cử…
3.4. Danh sách cử tri và danh sách người ứng cử
3.4.1. Danh sách cử tri
Danh sách cử tri là danh sách những người trong khu vực bỏ phiếu được Uỷ ban nhân dân cấp xã xác nhận là có quyền bầu cử dưới hình thức văn bản.
Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách ở một nơi mình thường trú hoặc tạm trú - đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, nơi mình cư trú - đối với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Chậm nhất là 30 ngày trước ngày bầu cử đại biểu Quốc hội, 35 ngày trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã phải niêm yết danh sách đó tại trụ sở Uỷ ban và những nơi công cộng của khu vực bỏ phiếu, đồng thời thông báo rộng rãi việc niêm yết để nhân dân kiểm tra danh sách cử tri. Kể từ ngày niêm yết, trong thời hạn luật định, mọi người có quyền khiếu nại về việc lập danh sách cử tri. Khiếu nại phải được Uỷ ban nhân dân cấp xã giải quyết. Nếu không đồng ý với cách giải quyết khiếu nại, người khiếu nại có quyền khiếu nại lên Toà án nhân dân cấp huyện. Quyết định của Toà án là quyết định cuối cùng.
Từ khi niêm yết cho đến ngày bầu cử, cử tri nào không thể tham gia bỏ phiếu ở nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri thì có quyền xin giấy chứng nhận của cơ quan lập danh sách cử tri để được ghi tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu ở nơi mới.
3.4.2. Danh sách người ứng cử.
Theo quy định của pháp luật, khi bầu cử đại biểu Quốc hội, công dân muốn ứng cử đại biểu (gồm người được giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử) phải nộp hồ sơ ứng cử theo quy định tại Hội đồng bầu cử trung ương hoặc Uỷ ban bầu cử nơi mình ứng cử. Còn khi bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì người muốn ứng cử phải nộp hồ sơ ứng cử tại Hội đồng bầu cử nơi mình ứng cử.
Để lập ra danh sách những người ứng cử, pháp luật quy định trình tự hiệp thương theo ba bước.
a. Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất là Hội nghị thoả thuận về cơ cấu, thành phần và số lượng người được giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử. Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc, ở trung ương, Hội nghị hiệp thương do Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức, ở cấp tỉnh, do Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh tổ chức. Trong cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Hội nghị hiệp thương do Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp bầu đại biểu tổ chức.
Căn cứ vào kết quả hiệp thương lần thứ nhất, Uỷ ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ nhất cơ cấu, thành phần, số lượng người của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương và địa phương được bầu làm đại biểu Quốc hội; Thường trực Hội đồng nhân dân các cấp điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình.
Trên cơ sở kết quả hiệp thương lần thứ nhất và sự điều chỉnh tương ứng, căn cứ vào tiêu chuẩn đại biểu, các cơ quan, tổ chức, đơn vị, thôn, tổ dân phố được phân bổ số lượng đại biểu tiến hành giới thiệu người ứng cử đại biểu.
b. Hội nghị hiệp thương lần thứ hai vẫn do Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh tổ chức (đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội), Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức (đối với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân).
Hội nghị hiệp thương lần thứ hai lập danh sách sơ bộ những người ứng cử và gửi lấy ý kiến cử tri nơi ứng cử viên cư trú và cả nơi làm việc, đối với người tự ứng cử (nếu có). Việc lấy ý kiến cử tri được thực hiện tại Hội nghị cử tri xã, phường, thị trấn, hội nghị cử tri ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân. Tại Hội nghị, cử tri bày tỏ sự tín nhiệm đối với người được giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử bằng cách giơ tay hoặc bỏ phiếu kín theo quyết định của Hội nghị.
Trong thời gian này, nếu cử tri nêu các vụ việc liên quan đến người ứng cử thì chậm nhất là 40 ngày trước ngày bầu cử, việc xác minh và trả lời về các vụ việc phải được thực hiện xong.
c. Hội nghị hiệp thương lần thứ ba do Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức (đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội), Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức (đối với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân). Hội nghị này được tổ chức chậm nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử để lựa chọn, lập danh sách chính thức những người ứng cử, cứ vào kết quả lấy ý kiến cử tri. Danh sách người ứng cử phải được các tổ chức bầu cử công bố chậm nhất là 20 ngày trước ngày bầu cử.
Người có tên trong danh sách ứng cử đại biểu đã được công bố có quyền vận động bầu cử thông qua việc gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri, với các phương tiện thông tin đại chúng để báo cáo với cử tri dự kiến thực hiện trách nhiệm của người đại biểu nếu được bầu làm đại biểu.
3.4.3. Trình tự – thủ tục bầu và kết quả bỏ phiếu.
Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật và được Uỷ ban thường vụ Quốc hội công bố chậm nhất là 105 ngày trước ngày bầu cử. Cuộc bỏ phiếu bắt đầu từ 7 giờ đến 19 giờ cùng ngày. Tuỳ tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn nhưng không được trước năm giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá mười giờ đêm.
Trong trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định ở khu vực bỏ phiếu nào thì Hội đồng bầu cử (đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội) hay cơ quan có thẩm quyền (đối với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân) xem xét, quyết định.
Thể thức bỏ phiếu được quy định như sau.
Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu. Cử tri phải tự mình đi bầu. Trường hợp không thể tự viết được phiếu bầu, cử tri nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; nếu vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu. Đối với các cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được, Tổ bầu cử có trách nhiệm mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở của cử tri để cử tri nhận phiếu và bầu.
Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được đến xem. Nếu viết hỏng, cử tri có quyền đề nghị Tổ bầu cử đổi phiếu bầu khác.
Trong ngày bầu cử, việc bỏ phiếu phải được tiến hành liên tục. Nếu có sự kiện bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ phiếu, thì Tổ bầu cử lập tức niêm phong hòm phiếu, tài liệu liên quan trực tiếp đến cuộc bầu cử và phải có những biện pháp cần thiết để việc bỏ phiếu được tiếp tục.
Khi đã hết giờ bỏ phiếu, nếu còn cử tri có mặt tại phòng bỏ phiếu mà chưa kịp bỏ phiếu thì chỉ sau khi số cử tri này bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử mới được tuyên bố kết thúc cuộc bỏ phiếu.
Việc kiểm phiếu phải được tiến hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúcvới sự chứng kiến của hai cử tri không phải là người ứng cử được mời.
Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử hoặc người được uỷ nhiệm có quyền chứng kiến việc kiểm phiếu và khiếu nại về việc kiểm phiếu. Các phóng viên báo chí được chứng kiến việc kiểm phiếu.
Những khiếu nại tại chỗ về việc kiểm phiếu do Tổ bầu cử nhận, giải quyết và ghi cách giải quyết vào biên bản. Nếu Tổ bầu cử không giải quyết được thì chuyển đến Ban bầu cử.
Sau khi kiểm phiếu xong, Tổ bầu cử phải lập biên bản kết quả kiểm phiếu, trong đó ghi các nội dung cơ bản: tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu, số cử tri đã tham gia bỏ phiếu, số cử tri đã tham gia bỏ phiếu, số phiếu hợp lệ và không hợp lệ, số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử.
Sau khi nhận được biên bản kết quả kiểm phiếu của các Tổ bầu cử, Ban bầu cử kiểm tra các biên bản đó và lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử của mình.
Trong số đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu, người ứng cử được quá nửa số phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu hơn là người trúng cử. Trường hợp nhiều người được số phiếu bằng nhau thì người nhiều tuổi hơn là người trúng cử.
3.3.4. Bầu cử thêm, bầu cử lại và bầu cử bổ sung
Bầu cử thêm được tiến hành khi trong cuộc bầu cử đầu tiên, đối với bầu đại biểu Quốc hội, số người trúng cử chưa đủ số đại biểu được bầu ấn định cho đơn vị bầu cử; đối với bầu đại biểu Hội đồng nhân dân, số đại biểu đã được bầu chưa đủ 2/3 số đại biểu ấn định cho đơn vị bầu cử. Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định việc bầu cử thêm ở đơn vị bầu cử đó.
Bầu cử lại được tiến hành khi ở đơn vị bầu cử, số cử tri đi bỏ phiếu chưa được quá 1/2 số cử tri ghi trong danh sách cử tri. Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định ngày bầu cử lại. Việc bầu cử lại cũng có thể do cuộc bầu cử ở đơn vị bầu có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Trong cuộc bầu cử thêm cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người đã ứng cử lần đầu nhưng không trúng cử. Trong cuộc bầu cử lại cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người đã ứng cử lần đầu.
Việc bầu cử thêm, bầu cử lại vẫn căn cứ vào danh sách cử tri đã lập trong cuộc bầu cử đầu tiên và được tiến hành theo các quy định.
Nếu bầu cử thêm mà vẫn chưa đủ số đại biểu theo quy định thì không tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai.
Nếu bầu cử lại mà số cử tri đi bầu vẫn chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách thì không tổ chức bầu cử lại lần thứ hai.
Việc bầu cử bổ sung được tiến hành khi:
- Trong nhiệm kỳ, một đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội khuyết đại biểu và thời gian còn lại của nhiệm kỳ Quốc hội từ 2 năm trở lên.
- Trong nhiệm kỳ, đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân khuyết đại biểu hoặc đơn vị hành chính mới được sáp nhập, đơn vị hành chính được chia thành nhiều đơn vị hành chính mới, đơn vị hành chính được thay đổi cấp có số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân chưa đủ theo quy định của pháp luật. Với tất cả các trường hợp vừa nêu, việc bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân còn có hai đòi hỏi khác, trừ trường hợp đặc biệt theo hướng dẫn của Chính phủ, đó là: 1/ Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân không còn đủ 2/3 tổng số đại biểu được ấn định; 2/ Thời gian của nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân còn ít nhất là 1/3.
Bầu cử bổ sung được tổ chức tương tự như bầu cử bình thường đã trình bày, với quy định về thời hạn thực hiện các việc ngắn hơn và một vài điểm khác.


CHƯƠNG XII
QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUỐC HỘI
1. Vị trí, vai trò của Quốc hội
Quốc hội hay Nghị viện, trong thuật ngữ Latinh là “parlare” nghĩa là hội họp, bàn luận. Đây là cơ quan đại diện cao nhất của cộng đồng dân cư trong nhà nước tư sản được nhân dân bầu ra để thực hiện chức năng lập pháp là chủ yếu.
Quốc hội ra đời là kết quả thắng lợi của cách mạng tư sản, là một thiết chế quyền lực – quyền lập pháp- độc lập trong bộ máy nhà nước, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân lập các quyền cùng tồn tại bên cạnh tổng thống, Chính phủ (hành pháp) và Toà án (tư pháp).
Khác với Nghị viện tư sản, Quốc hội các nước xã hội chủ nghĩa là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, được tổ chức và hoạt động theo chế độ tập quyền nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quốc hội các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện chức năng lập pháp, là cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước, là cơ quan giám sát tối cao đối với các cơ quan nhà nước khác.
2. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội
Quốc hội trong nhà nước tư sản được tổ chức thành viện (Nghị viện). Tuỳ tình hình và điều kiện của mỗi quốc gia mà Quốc hội có thể có một viện hoặc hai viện (Thượng Nghị viện và Hạ Nghị viện). Đối với những nước mà Quốc hội có hai viện, lãnh đạo của Nghị viện do lãnh đạo của từng viện thực hiện thông qua một người hoặc tập thể Uỷ ban Thường vụ.
Để thực hiện chức năng lập pháp và các nhiệm vụ của mình, Nghị viện các nước tư sản lập ra các uỷ ban của Nghị viện.
3. Thẩm quyền của Nghị viện
Thẩm quyền của Nghị viện được xác định bởi chức năng, nhiệm vụ của nó. Nghị viện của các nước tư sản đều có những thẩm quyền trong lĩnh vực lập pháp; ngân sách và tài chính; đối ngoại và quốc phòng; trong lĩnh vực tư pháp và quyền hạn trong lĩnh vực giám sát hoạt động của bộ máy hành pháp.
Tuy nhiên thẩm quyền của Nghị viện tư sản không giống với thẩm quyền của Quốc hội các nước xã hội chủ nghĩa. Việc sử dụng thẩm quyền của Nghị viện ở các nước tư sản luôn phải tuân thủ các nguyên tắc phân lập, đối trọng với các cơ quan nhà nước khác (hành pháp và tư pháp).
II. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ QUỐC HỘI VIỆT NAM
Sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa cách mạng tháng 8/1945 ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Mặc dù chính quyền đã về tay nhân dân nhưng tình hình đất nước lúc bấy giờ vô cùng khó khăn phức tạp: nạn đói hoành hoành, thù trong giặc ngoài tìm cách chống phá chính quyền, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời nhưng chưa được một quốc gia nào trên thế giới công nhận.
Trước tình hình như vậy, một trong những nhiệm vụ hàng đầu để củng cố và tăng cường chính quyền nhân dân là bầu Quốc hội, lập Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức.
Ngày 8/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra Sắc lệnh số 14-SL về cuộc tổng tuyển cử để bầu Quốc hội “…Việt Nam sẽ theo chính thể dân chủ cộng hoà và Chính phủ nhân dân toàn quốc sẽ do một Quốc dân đại hội bầu theo lối phổ thông đầu phiếu cử lên.” Bản Sắc lệnh quy định: “trong một thời hạn hai tháng kể từ kí Sắc lệnh này sẽ mở cuộc tổng tuyển cử để bầu quốc dân đại hội” (Điều 1).
Sáng ngày 6/1/1946 cử tri cả nước nô nức đi bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội. Trừ một số nơi phải bầu bổ sung, còn tuyệt đa số các địa phương chỉ bầu một lần. Cả nước đã bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau, 43% không đảng phái, 87% số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sỹ cách mạng, 10 đại biểu là phụ nữ và 34 đại biểu là các dân tộc thiểu số. Như vậy, cuộc tổng tuyển cử đầu tiên ở Việt Nam đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam ra đời.
Sáng 2/3/1946, khoảng 300 đại biểu Quốc hội đã tề tựu tại nhà hát lớn thành phố Hà Nội tham gia kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá 1 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Kể từ đó đến nay, đã 10 khoá Quốc hội nước ta trải qua các thời kỳ cách mạng khác nhau, nơi tụ hội ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt nam, đã giải quyết những công việc lớn lao của dân tộc, cùng toàn dân vượt qua mọi khó khăn thử thách giành thắng lợi ngày càng vẻ vang. Quốc hội nước ta thật sự xứng đáng là “hội nghị non sông”.
III. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT CỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Ở nước ta tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Do vậy, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp được gọi là cơ quan quyền lực Nhà nước, trong đó Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt. Vị trí đó luôn luôn được ghi rõ trong Hiến pháp: Điều 22 (Hiến pháp 1946); Điều 43 (Hiến pháp 1959); Điều 82 (Hiến pháp 1980); Điều 83 (Hiến pháp 1992). Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước cộng hoà XHCN Việt Nam.
Với vị trí như vậy, tính chất của Quốc hội được thể hiện như sau:
1. Tính đại biểu cao nhất của nhân dân
Quốc hội là cơ quan nhà nước duy nhất ở nước ta do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Quốc hội là kết quả sự lựa chọn của nhân dân.
Quốc hội là cơ quan nhà nước tập trung trí tuệ của toàn dân, đại diện cho các tầng lớp nhân dân, cho các vùng lãnh thổ. Quốc hội là sự thể hiện rõ nhất khối đại đoàn kết toàn dân.
Chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội là phục vụ lợi ích chung của nhân dân, của dân tộc, nói lên tiếng nói của nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước, có quyền quyết định những vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia, những vấn đề trọng đại của đất nước.
2. Tính quyền lực Nhà nước cao nhất
Quốc hội thay mặt Nhà nước thực hiện quyền lực Nhà nước thống nhất trong cả nước. Ở nước ta, Quốc hội là cơ quan nhà nước cao nhất, có quyền biến ý chí của nhân dân thành ý chí Nhà nước, thành các quy định của Hiến pháp, luật. Những quy định đó mang tính bắt buộc, tính cưỡng chế Nhà nước đối với mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và đối với mọi tầng lớp dân cư trong cả nước. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại về nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc phòng của đất nước, quy định những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Quốc hội bầu ra Uỷ ban thường vụ Quốc hội, bầu ra Chủ tịch nước, thành lập Chính phủ, bầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các cơ quan này được tổ chức và hoạt động theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, chịu sự giám sát của Quốc hội, có trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội.
Với vị trí, tính chất như vậy, Quốc hội mang chủ quyền Nhà nước, chủ quyền nhân dân, quyền lực Nhà nước tập trung vào Quốc hội. Mọi công việc quan trọng của đất nước, của nhân dân có ý nghĩa toàn quốc đều do Quốc hội quyết định.
IV. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Chức năng của Quốc hội
Chức năng của Quốc hội được quy định tại Điều 83 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm những phương diện sau đây:
- Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Đây là một trong những chức năng quan trọng của Nhà nước, chỉ có Quốc hội mới có quyền này.
- Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, quy định những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của Nhà nước hướng tới mục tiêu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội
Tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước ở nước ta là theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Các cơ quan nhà nước khác thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể do Quốc hội giao cho và chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
- Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
- Quốc hội quyết định những vấn đề cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh của đất nước, những nguyên tắc cơ bản chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, hướng các hoạt động theo đường lối do Đảng vạch ra, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Các chức năng cơ bản của Quốc hội được cụ thể hoá thành các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.
2.1. Quyền lập hiến và lập pháp
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Với tính chất và vị trí là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, chỉ có Quốc hội mới có quyền định ra các qui phạm pháp luật có hiệu lực pháp l‎uật cao nhất, điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản. Các qui phạm pháp luật do Quốc hội ban hành được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của cả bộ máy nhà nước, của toàn xã hội. Các qui phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước khác ban hành phải dựa vào Hiến pháp, phải cụ thể Hiến pháp, luật và các Nghị quyết của Quốc hội, không được trái với tinh thần, nội dung của Hiến pháp, luật và Nghị quyết của Quốc hội.
Ở một số nước tư bản có sự phân biệt Quốc hội lập hiến và Quốc hội lập pháp. Quốc hội lập hiến được bầu ra để làm Hiến pháp, khi Hiến pháp được ban hành thì Quốc hội lập hiến giải thể. Còn Quốc hội lập pháp không có quyền lập hiến mà chỉ căn cứ vào Hiến pháp để ra các đạo luật cần thiết nhằm thi hành Hiến pháp.
Ở nước ta, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền thông qua Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, thông qua Luật và sửa đổi Luật. Hoạt động này cũng nhằm tạo căn cứ, cơ sở pháp lý để xây dựng hệ thống pháp luật thực hiện Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong hệ thống pháp luật, Hiến pháp là cơ sở, là đạo luật cơ bản của Nhà nước, quy định các vấn đề quan trọng nhất về quyền lực Nhà nước và cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước, về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá - xã hội, về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, về quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân... Luật là văn bản có hiệu lực pháp lý sau Hiến pháp. Hiến pháp và luật thể hiện đường lối cơ bản và những chủ trương lớn của Đảng đã được Nhà nước thể chế hoá và có hiệu lực thi hành trên toàn lãnh thổ nước ta.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, bên cạnh việc ghi nhận quyền này của Quốc hội trong Hiến pháp (Điều 83) là làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật, Hiến pháp còn quy định Quốc hội có quyền quyết định chương trình xây dựng luật, Pháp lệnh (Điều 84).
2.2. Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
Là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Quốc hội có quyền quyết định các mục tiêu phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, những vấn đề quốc kế, dân sinh, những vấn đề đối nội, đối ngoại và an ninh quốc phòng.
Trong lĩnh vực kinh tế, kế hoạch và ngân sách, Quốc hội có quyền quyết định các mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội, quyết định dự toán, quyết toán ngân sách Nhà nước, quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế.
Quốc hội quyết định những vấn đề hệ trọng đối với vận mệnh của đất nước như quyết định về chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước, quyết định đại xá; quyết định việc trưng cầu ý dân.
Một nhiệm vụ quan trọng nữa của Quốc hội là quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại, phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế đã ký kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước.
2.3. Xây dựng, củng cố và tăng cường bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa
Quốc hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng củng cố và tăng cường bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước ta từ trung ương đến địa phương được tổ chức theo mô hình nào, nguyên tắc tổ chức và hoạt động ra sao đều do Quốc hội xem xét, lựa chọn và quy định trong Hiến pháp, được cụ thể hoá trong luật tổ chức Quốc hội, luật tổ chức Chính phủ, luật tổ chức Toà án nhân dân, luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
Ngoài việc quy định chung về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, Quốc hội bầu, miễn nhiệm Chủ tịch, Phó chủ tịch, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn Hội đồng quốc phòng và an ninh; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm chách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ. Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ, thành lập mới, chia, điều chỉnh địa giới các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
2.4. Giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước, giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật
Theo chức năng, nhiệm vụ của mình giám sát việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật do nhiều cơ quan nhà nước tiến hành. Nhưng quyền giám sát tối cao thuộc về Quốc hội. Nhiệm vụ giám sát của Quốc hội là nhằm làm cho những quy định của Hiến pháp, pháp luật được thi hành triệt để và thống nhất. Quốc hội giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước đảm bảo cho những cơ quan này hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn được quy định, làm cho bộ máy nhà nước hoạt động đều đặn, có hiệu lực, không chồng chéo, đồng thời chống vi phạm pháp luật, chống các biểu hiện tham nhũng quan liêu và hách dịch.
Thực hiện quyền giám sát, Quốc hội thông qua việc xem xét báo cáo hoạt động công tác của Chủ tịch nước, của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thông qua hoạt động của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội, hoạt động của bản thân đại biểu Quốc hội, các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội thực hiện quyền giám sát thông qua việc xem xét tình hình thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ kinh tế, xã hội và các lĩnh vực khác của cuộc sống, giành thời gian cho hoạt động kiểm tra tình hình thực tế, tìm biện pháp giải quyết những vấn đề cấp bách, nóng bỏng như tình hình đời sống, công ăn việc làm, tiền lương, tháo gỡ ách tắc trong sản xuất, phát triển kinh tế, xem xét việc thực hiện các chính sách dân tộc và miền núi, các biện pháp đảm bảo thực hiện quyền cơ bản của công dân.
V. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Cơ cấu tổ chức của Quốc hội được quy định trong Hiến pháp và luật tổ chức Quốc hội.
Tổ chức của Quốc hội là một trong những yếu tố đảm bảo hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Tổ chức Quốc hội theo Hiến pháp 1992 bao gồm Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội.
1. Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Trước đây, trong tổ chức của Quốc hội đã có Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Nhưng theo quy định Hiến pháp 1980, Uỷ ban thường vụ Quốc hội được thay thế bằng Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại sao chỉ mới tồn tại hơn mười năm mà chúng ta phải xem xét lại và thay thế thiết chế Hội đồng Nhà nước? Nhìn lại tổ chức và hoạt động của Hội đồng Nhà nước có thể thấy rõ: Hội đồng Nhà nước đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, đã góp phần quan trọng vào việc từng bước nâng cao vai trò và hiệu lực của Quốc hội, đã ban hành nhiều pháp lệnh cần thiết, kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội trong thời gian đầu của thời kỳ đổi mới. Mặt khác, cũng phải nhận thấy rằng, do quy định của pháp luật về chức năng Chủ tịch tập thể của Hội đồng Nhà nước nên nhiều khi không thể hiện rõ vai trò nguyên thủ quốc gia. Việc Hội đồng Nhà nước ban hành nhiều pháp lệnh về tất cả mọi lĩnh vực, việc Hội đồng Nhà nước được quyền quy định một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của Quốc hội đã làm nảy sinh vấn đề liên quan đến yêu cầu tập trung quyền lực, nhất là quyền lập pháp vào Quốc hội. Giữa hai kỳ họp Quốc hội thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước rất rộng. Nhưng trong kỳ họp Quốc hội, thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước hầu như lại không được thể hiện. Hơn nữa, chức năng, nhiệm vụ giao cho Hội đồng Nhà nước rất nặng nề, nhưng cơ cấu thành viên của Hội đồng Nhà nước hầu hết gồm những người kiêm nhiệm.
Để khắc phục tình trạng đó, trong Hiến pháp 1992 đã phân rõ chức năng nhiệm vụ của Hội đồng Nhà nước cho các cơ quan khác nhau. Chức năng nguyên thủ quốc gia do Chủ tịch nước đảm nhiệm. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội do Quốc hội bầu ra, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội gồm Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội, tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội, giải thích Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, ban hành Pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thực hiện quyền giám sát việc thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ; Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao trái với Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Hiến pháp 1992 đã quy định vai trò tích cực của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong việc thúc đẩy hoạt động của các Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội và của các đại biểu Quốc hội. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác của Quốc hội; hướng dẫn và đảm bảo điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các Nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội. Hiến pháp còn quy định cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giải quyết một số vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội trong thời gian Quốc hội không họp. Cụ thể là trong thời gian Quốc hội không họp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và báo cáo của Quốc hội tại kỳ họp gần nhất; quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và trình Quốc hội phê chuẩn quyết định đó tại kỳ hop gần nhất của Quốc hội.
Chủ tịch Quốc hội có vị trí đặc biệt trong tổ chức của Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội chủ toạ các phiên họp của Quốc hội, đảm bảo thi hành Qui chế đại biểu Quốc hội; nội qui kỳ họp Quốc hội; ký chứng thực luật; Nghị quyết của Quốc hội; tổ chức việc thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội, lãnh đạo hoạt của Đoàn Quốc hội Việt Nam trong Liên minh Quốc hội thế giới.
Chủ tịch Quốc hội là người chủ trì và điều hành các hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, lãnh đạo công tác của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; chỉ đạo việc chuẩn bị triệu tập và chủ toạ các phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Chủ tịch Quốc hội triệu tập và chủ toạ hội nghị liên tịch giữa Chủ tịch Hội đồng dân tộc, các Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội và các Uỷ ban của Quốc hội; tham dự phiên họp của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội khi xét thấy cần thiết.
Chủ tịch Quốc hội giữ mối liên hệ với các đại biểu Quốc hội, theo dõi việc thực hiện các quy định của pháp luật về việc đảm bảo điều kiện để đại biểu hoạt động, cung cấp thông tin để đại biểu nắm chương trình hoạt động và tình hình hoạt động của Quốc hội, theo dõi và đôn đốc các đại biểu báo cáo tình hình hoạt động của mình.
Chủ tịch Quốc hội chỉ đạo việc thực hiện công tác đối ngoại của Quốc hội; thay mặt Quốc hội trong quan hệ đối ngoại, lãnh đạo hoạt động của Đoàn Quốc hội Việt Nam trong Liên minh Quốc hội thế giới.
Chủ tịch Quốc hội chỉ đạo và tổ chức thực hiện ngân sách của Quốc hội. Ngân sách của Quốc hội là một khoản độc lập trong ngân sách Nhà nước do Quốc hội thảo luận và quyết định.
2. Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội.
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban Quốc hội đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Trong thực tế, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội đã khẳng định được mình. Nhưng để đáp ứng được yêu cầu đặt ra thì phải có những quy định đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban Quốc hội. Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội đã thể hiện chủ trương tăng cường nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng và các Uỷ ban, thành lập thêm một số Uỷ ban và quy định của một số đại biểu hoạt động chuyên trách trong Hội đồng và các Uỷ ban.
Quốc hội bầu ra Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội để thẩm tra các dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác, thẩm tra các báo cáo được Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giao cho; trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh, thực hiện quyền giám sát, kiến nghị những vấn đề trong phạm vi, quyền hạn của mình.
Theo từng lĩnh vực hoặc từng nhóm vấn đề nhất định Quốc hội thành lập Hội đồng dân tộc; Uỷ ban pháp luật; Uỷ ban kinh tế và ngân sách; Uỷ ban quốc phòng và an ninh; Uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; Uỷ ban về các vấn đề xã hội; Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường; Uỷ ban đối ngoại.
Ngoài những Uỷ ban nói trên, khi xét thấy cần thiết Quốc hội thành lập Uỷ ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định.
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội do Quốc hội thành lập. Các thành viên của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội phải là đại biểu Quốc hội và không thể đồng thời là thành viên của Chính phủ.
Quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng và các Uỷ ban cơ bản và phát triển những quy định của Hiến pháp 1980. Trong Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội vừa mới thông qua có quy định thành lập thêm một Uỷ ban mới; Uỷ ban quốc phòng và an ninh. Nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban quốc phòng và an ninh bao gồm nhiệm vụ thẩm tra các dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác thuộc lĩnh vực này; giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong lĩnh vực Quốc phòng và an ninh; kiến nghị với Quốc hội các vấn đề về chính sách quốc phòng, an ninh.
VI. HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC HỘI
1. Kỳ họp của Quốc hội
Kỳ họp Quốc hội là hình thức hoạt động chủ yếu của Quốc hội, nơi biểu hiện trực tiếp và tập trung nhất quyền lực Nhà nước, biểu hiện trí tuệ tập thể của đại biểu.
Để đảm bảo chất lượng của các kỳ họp Quốc hội, việc chuẩn bị kỳ họp đóng vai trò rất quan trọng. Chuẩn bị kỳ họp bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, do nhiều cơ quan đảm nhiệm, như xây dựng các dự án trình Quốc hội, điều tra, nghiên cứu, thu thập tình hình thực tế và ý kiến nguyện vọng của nhân dân, quyết định các vấn đề liên quan đến kỳ họp. Việc chuẩn bị kỳ họp thu hút sự tham gia đông đảo các cơ quan nhà nước, của các Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội, của bản thân mỗi đại biểu Quốc hội.
Tại kỳ họp, Quốc hội xem xét thông qua các dự án, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách Nhà nước, các báo cáo, dự án luật và dự án khác theo trình tự sau đây:
1.1. Trình bày dự án trước Quốc hội.
Để Quốc hội xem xét và quyết định, cơ quan hoặc người trình bày dự án phải trình bày trước Quốc hội. Khi trình bày cần làm rõ yêu cầu xây dựng dự án, nội dung cơ bản của dự án, các bước chuẩn bị tiến hành, tài liệu tham khảo, việc chỉnh lý dự thảo và toàn văn dự thảo. Đối với dự án luật thì do cơ quan hoặc người trình bày dự án quy định tại Điều 87 của Hiến pháp trình bày. Đối với dự án nhiệm vụ kinh tế xã hội và ngân sách Nhà nước thì thường do Chính phủ trình bày.
1.2. Thuyết trình việc thẩm tra dự án.
Sau khi nghe cơ quan hoặc người trình dự án trình bày, Quốc hội nghe thuyết trình của Hội đồng hoặc Uỷ ban của Quốc hội được giao thẩm tra dự án, báo cáo ý kiến của Hội đồng hoặc Uỷ ban về dự án đó, nếu là kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá mới thì thuyết trình viên do Chủ tịch Quốc hội khoá trước chỉ định.
Thuyết trình viên phải nêu lên những mặt được và tồn tại của dự án, đồng thời phát biểu ý kiến về việc có thể chấp nhận dự án được hay không. Nếu cần khắc phục thì khắc phục những điểm nào trong dự án.
1.3. Thảo luận dự án.
Các dự án được Quốc hội xem xét và thảo luận tại phiên họp toàn thể tập trung tại hội trường. Trước khi thảo luận tại phiên họp toàn thể, vấn đề có thể được đưa ra bàn, thảo luận tại cuộc họp của Đoàn, Tổ đại biểu Quốc hội hoặc Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Thảo luận toàn thể tại hội trường trở thành sinh hoạt sôi nổi và tập trung của Quốc hội. Kết quả cuối cùng là cái đúng sẽ thắng, phương án được lựa chọn là phương án tối ưu hợp với đa số. Thảo luận ở tổ hay ở Hội trường được quyết định phụ thuộc vào mức độ phức tạp của vấn đề. Điều quan trọng nhất là phải làm sao tạo điều kiện để các đại biểu phát biểu hết và thể hiện đúng ý kiến của mình, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân mà đại biểu là người đại diện.
1.4. Biểu quyết thông qua dự án.
Biểu quyết là hình thức thể hiện quan điểm của đại biểu Quốc hộ về một vấn đề, một dự án. Biểu quyết cũng là cách thức chấm dứt việc thảo luận.
Các dự án luật có thể được Quốc hội thông qua bằng cách biểu quyết từng điều, từng chương; biểu quyết những điều có sửa đổi, bổ sung, sau đó biểu quyết toàn bộ, hoặc biểu quyết toàn bộ một lần.
Các dự án khác có thể được Quốc hội thông qua bằng cách biểu quyết từng vấn đề, biểu quyết những vấn đề được đưa ra thảo luận, sau đó biểu quyết toàn bộ, hoặc biểu quyết toàn bộ một lần.
Vấn đề cần biểu quyết và cách biểu quyết do Quốc hội quyết định. Các luật và Nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
2. Chất vấn và trả lời chất vấn
Chất vấn là biện pháp thực hiện hữu hiệu quyền giám sát của Quốc hội. Chất vấn thực sự phát huy tác dụng tại các kỳ họp Quốc hội. Trong chương trình kỳ họp, Quốc hội dành một thời gian thích đáng cho chất vấn và trả lời chất vấn.
Chất vấn là quyền của đại biểu Quốc hội, của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội đòi hỏi một cơ quan, một nhà chức trách nào đó phải trả lời, phải báo cáo với cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất về vấn đề có liên quan đến hoạt động của cơ quan hoặc người bị chất vấn.
Chất vấn cũng là một dạng câu hỏi nhưng chất vấn hoàn toàn khác câu hỏi thường. Nếu câu hỏi thường đặt ra chỉ nhằm mục đích để thu thập thông tin, thì chất vấn được đặt ra nhằm để quy kết trách nhiệm. Khi chất vấn vấn đề được nêu lên đã được đại biểu điều tra nghiên cứu kỹ và đã có chủ định về trách nhiệm của cơ quan hoặc người bị chất vấn. Khi chất vấn để nêu tên buộc cơ quan hoặc người bị chất vấn phải trả lời nghiêm túc. Kết quả trả lời chất vấn dẫn đến kết luận áp dụng hay không áp dụng các biện pháp kỷ luật Nhà nước đối với cơ quan hoặc người bị chất vấn.
Thủ tục chất vấn và trả lời chất vấn được quy định rõ trong Hiến pháp, luật và các văn bản khác.
Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Khi Quốc hội họp, đại biểu Quốc hội gửi những chất vấn đến Chủ tịch Quốc hội để Chủ tịch Quốc hội chuyển cho các cơ quan hoặc những người bị chất vấn. Cơ quan hoặc người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp đó của Quốc hội. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội quyết định thời gian trả lời trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội. Quốc hội có thể bố trí thời gian để các đại biểu phát biểu ý kiến về việc trả lời chất vấn. Khi cần thiết, Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết về việc trả lời và trách nhiệm của những cơ quan hoặc người bị chất vấn.
VII. ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho nhân dân ở các đơn vị bầu ra mình đồng thời đại diện cho nhân dân cả nước, là cầu nối quan trọng giữa chính quyền Nhà nước với nhân dân. Đại biểu Quốc hội, vì vậy, vừa chịu trách nhiệm trước nhân dân, vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.
Trong khi làm nhiệm vụ, đại biểu Quốc hội phải xuất phát từ lợi ích chung của cả nước đồng thời quan tâm thích đáng đến lợi ích của địa phương bầu ra mình; phải căn cứ vào pháp luật Nhà nước và những quy định của Chính quyền Nhà nước ở địa phương.
Đại biểu Quốc hội là bộ phận cấu thành của Quốc hội, là một trong những yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Vì vậy, để tăng cường hiệu lực thực sự của Quốc hội, Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội đã sửa đổi theo hướng hoàn thiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Đại biểu Quốc hội, quy định điều kiện đảm bảo hoạt động của đại biểu Quốc hội, quy định chế độ chuyên trách và không chuyên trách, quy định các hình thức bãi nhiệm nếu đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
1. Nhiệm vụ và quyền hạn của đại biểu
Đại biểu có nhiệm vụ tham gia đầy đủ các kỳ họp, phiên họp Quốc hội, thảo luận và quyết định các vấn đề, trình dự án luật, kiến nghị về luật trước Quốc hội; dự án pháp lệnh ra trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội; có quyền chất vấn; có nhiệm vụ liên hệ chặt chẽ với cử tri, thường xuyên gặp gỡ tiếp xúc cử tri; tiếp dân, giúp dân giải quyết khiếu nại, tố cáo; có quyền yêu cầu chấm dứt những hành vi vi phạm pháp luật; có quyền bất khả xâm phạm.
2. Chế độ làm việc của đại biểu
Trong số đại biểu Quốc hội sẽ có một số đại biểu làm việc theo chế độ chuyên trách và có những đại biểu làm việc theo chế độ không chuyên trách.
Đại biểu Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách phải dành hết thời gian cho hoạt động của Quốc hội, hưởng lương do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định. Để chuyển dần Quốc hội sang hoạt động thường xuyên, bước đầu phải có ít nhất là một phần tư đại biểu làm việc chuyên trách để bố trí công việc ở Hội đồng, các Uỷ ban Quốc hội. Ở mỗi Đoàn đại biểu Quốc hội sẽ có khoảng một hoặc hai đại biểu chuyên trách. Luật cũng quy định điều kiện đảm bảo để đại biểu yên tâm hoạt động cho Quốc hội. Đại biểu chuyên trách được bố trí nơi làm việc ở trụ sở Quốc hội. Cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế nơi đại biểu làm việc, trước khi hoạt động chuyên trách có trách nhiệm tiếp nhận và bố trí việc làm cho đại biểu sau khi hết nhiệm kỳ. Thời gian hoạt động chuyên trách được tính vào thời gian công tác liên tục của đại biểu.
Đại biểu Quốc hội hoạt động theo chế độ không chuyên trách được dành ít nhất một phần ba thời gian làm việc để làm nhiệm vụ đại biểu Quốc hội.
3. Hình thức bãi nhiệm đại biểu
Theo quy định trước đây thì đại biểu Quốc hội bị cử tri bầu ra mình bãi nhiệm nếu không còn xứng đáng với sự tính nhiệm của nhân dân.
Thực tế trong lịch sử Quốc hội chỉ có vài trường hợp đại biểu bị bãi miễn. Như vậy, có phải những đại biểu còn lại đều làm tròn trách nhiệm và xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân hay không? Không phải như vậy. Có không ít đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân nhưng không bị đưa ra bãi miễn. Thay vào hình thức bãi miễn là hình thức xử lý nhẹ nhàng hơn cho phép các đại biểu đó làm đơn xin từ chức vì lý do công tác hay sức khoẻ. Bởi vì nếu tổ chức bãi miễn thì sẽ rất cồng kềnh, tốn kém. Và cũng vì sự cồng kềnh, tốn kém nên ta cố tránh thực hiện các quy định về bãi miễn. Để khắc phục tình trạng này, trong Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội đã quy định thêm một hình thức bãi nhiệm đại biều Quốc hội đó là hình thức Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội.
Theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Quốc hội, đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tuỳ theo mức độ sai lầm mà bị Quốc hội hoặc cử tri bãi nhiệm. Trong trường hợp Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội thì việc bãi nhiệm phải được hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Trong trường hợp cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội thì việc bãi nhiệm được tiến hành theo thể thức do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định.
Cùng với những quy định khác trong Hiến pháp, những quy định về đại biểu Quốc hội sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội, người được nhân dân bầu ra thay mặt nhân dân ở cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội là một trong những nội dung lớn của chủ trương cải cách bộ máy nhà nước. Việc thực hiện chủ trương đó đặt ra trong tổng thể quá trình đổi mới hệ thống chính trị để đáp ứng “yêu cầu cấp thiết phải xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả, bài trừ quan liêu, tham nhũng, buôn lậu, giữ vững và phát huy bản chất cách mạng của một Nhà nước của dân, do dân, vì dân”.
Những quy định của Hiến pháp và những văn bản pháp luật cụ thể hoá Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng Quốc hội thực sự trở thành cơ quan đại biểu cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
CHƯƠNG XIII
CHỦ TỊCH NƯỚC
I. THIẾT CHẾ CHỦ TỊCH NƯỚC TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm nguyên thủ quốc gia và Chủ tịch nước.
Cùng với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, nguyên thủ quốc gia là một chế định rất quan trọng trong việc tổ chức bộ máy quyền lực của các nhà nước hiện nay.
Trong các nhà nước khác nhau, hoặc trong từng thời kỳ khác nhau của một nhà nước, chế định nguyên thủ quốc gia được tổ chức một cách khác nhau, với những tên gọi khác nhau và có vai trò, vị trí khác nhau trong bộ máy nhà nước của từng nước. Mặc dù có những điểm khác nhau về vai trò vị trí, nhưng ở bất cứ nhà nước nào nguyên thủ quốc gia cũng là người đứng đầu nhà nước, đại diện cho nước về đối nội và đối ngoại.
Nguyên thủ quốc gia có thể có những tên gọi như: Vua, Quốc vương, Nữ hoàng, Thống chế, Tổng thống, Đoàn chủ tịch, Hội đồng Liên bang, Hội đồng Nhà nước... Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nguyên thủ quốc gia là Chủ tịch nước.
Trong các nhà nước Tư sản, về hình thức vẫn theo chính thể quân chủ, nguyên thủ quốc gia có thể là Vua, Quốc vương, Hoàng đế... Trong những nhà nước này nguyên thủ quốc gia trên thực tế không có quyền lực mà chỉ tồn tại một cách tượng trưng phù hợp với phong tục tập quán truyền thống. Vua, Quốc vương, Hoàngđế... chỉ như một biểu tượng về sự tồn tại vĩnh hằng, đoàn kết của quốc gia, dân tộc. Nhìn chung nguyên thủ quốc gia ở những nước theo chính thể quân chủ hiện nay không có quyền lập pháp, hành pháp, quyền lực bị hạn chế tối đa1 - "trị vì nhưng không cai trị".
Trong các nhà nước tư sản theo chính thể cộng hoà nguyên thủ quốc gia là Tổng thống. Tổng thống có quyền lực rất lớn, Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp, chi phối nhiều khi là quyết định đến cả cơ quan lập pháp2.
Trong các nhà nước thuộc hệ thống XHCN trước đây, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hai hình thức: nguyên thủ quốc gia tập thể (Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao, Hội đồng nhà nước) và nguyên thủ quốc gia là một cá nhân (Chủ tịch nước).
Chế định nguyên thủ quốc gia tập thể lúc bấy giờ được coi như một bước phát triển về dân chủ trong tổ chức bộ máy nhà nước và quản lý xã hội. Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao (Liên xô) và Hội đồng nhà nước (CHDC Đức,

Việt nam sau Hiến pháp 1980) vừa làm chức năng của nguyên thủ quốc gia vừa là cơ quan thường trực của Xô viết tối cao, Quốc hội, đại diện cho Xô viết tối cao, Quốc hội giữa hai kỳ họp. Một số nước XHCN khác như Tiệp khắc, Ba Lan, Rumani... theo truyền thống lịch sử nguyên thủ quốc gia vẫn là một cá nhân - Chủ tịch nước.
Nguyên thủ quốc gia, dù ở chế độ nhà nước nào, được tổ chức tập thể hay cá nhân, quyền hạn nhiều hay ít đều có những tính chất chung như sau:
- là cơ quan phối hợp điều hoà giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
- là một thiết chế ít nhiều mang tính thông lệ, được lập ra để thực hiện các công việc nhà nước trong các hình thức nghi lễ long trọng về đối nôị và đối ngoại.
- là biểu tượng cho chủ quyền, danh dự, tính thống nhất của quốc gia, nhà nước, dân tộc.
Với tính chất và đặc điểm của nguyên thủ quốc gia như phân tích trên đây; trở lại lịch sử, trong nhà nước phong kiến không thể tồn tại thiết ché nguyên thủ quốc gia với nguyên nghĩa của nó. Bởi vì trong nhà nước phong kiến người đứng đầu nhà nước ( Vua, Quốc vương...) không đại diện cho ai ngoài bản thân ông ta. Trong nhà nước phong kiến đó Vua nắm mọi quyền lực ( chuyên chế), các thiết chế nhà nước khác được lập ra cũng chỉ để phục vụ cho lợi ích của bản thân một ông vua đó mà thôi.
Nguyên thủ quốc gia là chế định mới chỉ xuất hiện từ khi nhà nước tư sản ra đời, xác lập chế độ dân chủ nghị viện, mọi quyền lực trong nhà nước tư sản được tuyên bố là của nhân dân. Theo quan điểm của một số tác giả, nghị viện - cơ quan nắm quyền lực nhà nước cao nhất mới chính là người thay mặt nhà nước, đứng đầu nhà nước, tức là nguyên thủ quốc gia1,2 Sự phân quyền trong nhà nước tư sản thành các nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp) đồng thời xuất hiện một cá nhân đứng đầu nhà nước, thay mặt cho nhà nước - đó là nguyên thủ quốc gia - Tổng thống.
Sau này trong các nhà nước XHCN, bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, mọi quyền lực nhà nước đều tập trung vào cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân (Quốc hội, Xô viết tối cao). Về bản chất chức năng nguyên thủ quốc gia do chính Quốc hội (Xô viết tối cao) thực hiện2 Tuy nhiên cũng như các nhà nước tư sản, chế định nguyên thủ quốc
gia ( cá nhân hoặc tập thể) vẫn được xác lập cùng với các cơ quan quyền lực nhà nước khác.
Việc xác lập nguyên thủ quốc gia như một thiết chế riêng biệt trong nhà nước Tư sản hay nhà nước XHCN có thể lý giải bởi truyền thống lịch sử của mỗi nước và thông lệ quốc tế trong giao dịch đối ngoại giữa các nhà nước với nhau. Ngoài ra đó còn là "hệ quả" nói lên tính "hợp lý", thuận tiện của sự phân chia quyền lực (trong nhà nước Tư sản) và sự phân công phân nhiệm các công việc nhà nước (trong nhà nước XHCN)
2. Chủ tịch nước trong lịch sử lập hiến nước ta.
Kể từ khi nước Việt nam dân chủ cộng hoà ra đời năm 1945 cho đến nay, nước ta đã có 4 Hiến pháp tương ứng với các giai đoạn phát triển của Cách mạng Việt nam. Chủ tịch nước, với tư cách là nguyên thủ quốc gia, đều do Hiến pháp xác lập. Tuy nhiên thẩm quyền chức năng của Chủ tịch nước được các Hiến pháp qui định trong mỗi thời kỳ lại có những nét khác nhau.
Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước ta, là nguyên thủ quốc gia đồng thời là người đứng đầu bộ máy hành pháp. Hiến pháp năm 1946 trao cho Chủ tịch nước quyền hành rất rộng và Chủ tịch nước không phải chịu bất cứ m0ột trách nhiệm nào, trừ khi phản quốc. Điều này được lý giải bởi hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ: nhà nước ta vừa ra đời, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội còn nhiều khó khăn, phức tạp. Để đối phó với thù trong giặc ngoài, tập hợp sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc để vượt qua khó khăn thì sự lãnh đạo của nhà nước cần phải hết sức năng động, "mềm dẻo". Chính vì vậy quyền đứng đầu Nhà nước và điều hành Chính phủ đều tập trung vào Chủ tịch Hồ Chí Minh1
Đến Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước được tách ra khỏi bộ máy hành pháp. Quyền chủ toạ Hội đồng Chính phủ của Chủ tịch nước được chuyển sang Thủ tướng.Trong những trường hợp thật cần thiết, Chủ tịch nước mới tham dự và làm chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Chính phủ (Điều 66, Hiến pháp 1959). Hiến pháp 1959 còn qui định Chủ tịch nước có quyền triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt gồm có: Chủ tịch và Phó chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và những người liên quan khác. Hội nghị chính trị đặc biệt xét những vấn đề lớn của đất nước, (Điều 67, Hiến pháp 1959). Mặc dù Chủ tịch nước có quyền triệu tập và chủ toạ Hội nghị chính trị đặc biệt, nhưng những ý kiến của Hội nghị chính trị đặc biệt Chủ tịch nước không có quyền quyết định. Chủ tịch nước có trách nhiệm chuyển những ý kiến của Hội nghị chính trị đặc biệt đến Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ hoặc những cơ quan hữu quan khác để thảo luận và quyết định. Hội nghị chính trị đặc biệt tồn tại với tư cách là tư vấn cho các cơ quan nhà nước, nhưng có tính bắt buộc sau khi Chủ tịch nước đã công bố quyết định. Chính điều này có ý kiến cho rằng Hiến pháp năm 1959 đã vận dụng trên thực tế nguyên tắc Nguyên thủ quốc gia tập thể.(1) Điều này là phù hợp với tình hình cụ thể lúc bấy giờ: nước ta bị chia cắt làm hai miền với hai nhiệm vụ cách mạng. Miền Bắc bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục đấu tranh giải phóng dân tộc; đất nước vừa có hoà bình vừa có chiến tranh. Vị trí của Chủ tịch nước, một mặt là nguyên thủ quốc gia với tư cách cá nhân thay mặt cho nhà nước về đối nội và đối ngoại trong điều kiện bình thường; mặt khác là nguyên thủ quốc gia tập thể trong những quyết định quan trọng, cấp bách cần đưa ra trao đổi.
Sau khi nước nhà thống nhất năm 1975, cả nước bước vào thời kỳ quá độ xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Đáp ứng với tình hình mới, Hiến pháp 1980 được ban hành. Với quan điểm làm chủ tập thể và tiếp thu kinh nghiệm của Liên xô và các nước XHCN lúc bấy giờ, Hiến pháp 1980 xác lập thiết chế Hội đồng Nhà nước. "Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam" ( Điều 98, Hiến pháp 1980). Hai chức năng nguyên thủ quốc gia và Uỷ ban thường vụ quốc hội được gộp lại thành Hội đồng Nhà nước và là nguyên thủ quốc gia tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam. Như vậy nhiệm vụ của Hội đồng Nhà nước rất nặng nề: vừa là cơ quan đại diện cao nhất, thường trực của Quốc hội, vừa hoạt động với tư cách là nguyên thủ quốc gia; vừa mang tính đại diện cao nhất của nhà nước trong các vấn đề đối nội, đối ngoại, vừa mang tính lập pháp lại vừa mang tính hành pháp.
Thể chế Hội đồng Nhà nước có một số mặt mạnh là: một số những quyết định quan trọng của nhà nước được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số, huy động được trí tuệ của các thành viên Hội đồng, bộ máy nhà nước được gọn nhẹ, đơn giản, bớt các thủ tục làm việc. Thực tế hơn 10 năm tồn tại, Hội đồng nhà nước đã thông qua nhiều văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý dưới luật, kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng.
Tuy nhiên thể chế Hội đồng Nhà nước cũng bộc lộ những mặt yếu là: thiếu người chuyên trách, trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước chưa thật rõ ràng. Hội đồng Nhà nước, ngoài nhiệm vụ thường trực Quốc hội còn phải đảm nhiệm cả những việc đối nội, đối ngoại có tính chất hình thức nghi lễ mang tính chất cá nhân thay mặt nhà nước không thật cần thiết phải bàn bạc1.
Hiến pháp 1992 được ban hành như một hệ quả tất yếu của đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt nam khởi xướng tại Đại hội lần thứ VI năm 1986. Có thể nói, Hiến pháp 1992 là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới. Bộ máy nhà nước ta cũng được thay đổi cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới.
Mặc dù tổ chức bộ máy nhà nước ta không theo nguyên tắc phân quyền, nhưng chức năng, thẩm quyền của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp phải được phân công phân nhiệm một cách rõ ràng dưới sự giám sát của Quốc hội. Với tinh thần đó chức danh Chủ tịch nước được tái lập lại. Hội đồng Nhà nước trước đây được tách ra thành Chủ tịch nước là cá nhân đại diện cho Nhà nước về đối nội, đối ngoại như thông lệ quốc tế. Đồng thời Hiến pháp cũng xác lập Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, có nhiệm vụ điều hoà phối hợp hoạt động của các Uỷ ban Quốc hội, quyết định một số công việc của Quốc hội.
Vị trí, tính chất của Chủ tịch nước theo Điều 101 Hiến pháp 1992 đã được khái quát như sau: " Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam về đối nội và đối ngoại".
Về mặt đối ngoại, Chủ tịch nước là đại diện cao nhất của nhà nước trong các quan hệ quốc tế, chính thức hoá những quyết định về đối ngoại của nhà nước và là biểu tượng cho chủ quyền quốc gia.
Về mặt đối nội, Chủ tịch nước là người đứng đầu bộ máy nhà nước có quyền trực tiếp hay gián tiếp bổ nhiệm các chức vụ cao cấp của nhà nước. Ở các mức độ khác nhau Chủ tịch nước thực hiện cả chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp và giám sát.

II. THẨM QUYỀN CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC
Thẩm quyền của Chủ tịch nước được thể hiện trong các lĩnh vực hoạt động của Chủ tịch nước với tư cách là nguyên thủ quốc gia, được cụ thể hoá thành những quyền hạn và trách nhiệm do Hiến pháp và các Luật tổ chức nhà nước qui định.
Điều 103, Hiến pháp 1992 đã khái quát hoá thẩm quyền của Chủ tịch nước ( gồm 12 vấn đề). Tuy nhiên thẩm quyền của Chủ tịch nước có thể được phân tích theo hai lĩnh vực cơ bản là đối nội và đối ngoại. Trong khoa học về Luật Nhà nước ở nước ta còn có những cách phân tích thẩm quyền của Chủ tịch nước theo những tiêu chí khác. Chẳng hạn có tác giả phân tích thẩm quyền của Chủ tịch nước thành những quyền hạn và trách nhiệm trong điều kiện đất nước ở trạng thái bình thường và trong những điều kiện không bình thường như chiến tranh hay tình trạng khẩn cấp1.
Có tác giả phân tích thẩm quyền của Chủ tịch nước dựa trên tính độc lập của các quyết định Những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước tự quyết định, những vấn đề do tập thể quyết định trước, sau đó Chủ tịchnước mới căn cứ vào để ra quyết định.
Trong mỗi cách phân tích về thẩm quyền của Chủ tịch nước đều có ý nghĩa thực tiễn và lý luận, cho chúng ta thấy quyền hạn và chức năng của Chủ tịch nước một cách sinh động và sâu sắc hơn. Dưới đây chúng ta sẽ phân tích thẩm quyền của Chủ tịch nước theo các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp, ngoại giao, an ninh quốc phòng... Qua cách phân tích này chúng ta sẽ thấy rõ hơn mối quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước khác và thấy được vị trí, vai trò điều hoà phối hợp các công việc nhà nước của Chủ tịch nước.
1. Thẩm quyền của Chủ tịch nước trong các vấn đề đối ngoại.
Với tư cách là nguyên thủ quốc gia, đại diện cao nhất thay mặt cho nhà nước về đối ngoại, Chủ tịch nước có quyền:
- Cử, triệu hồi Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt nam.
- Tiếp nhận Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài.
- Đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam với người đứng đầu nhà nước khác.
- Quyết định phê chuẩn hoặc tham gia các điều ước quốc tế.
- Trình Quốc hội phê chuẩn các điều ước quốc tế đã ký.
Trong các chính sách cơ bản về đối ngoại, phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế đã ký kết hoặc tham gia, Chủ tịch nước không có quyền quyết định mà có trách nhiệm trình Quốc hội quyết định.
- Quyết định cho nhập Quốc tịch, cho thôi Quốc tịch hoặc tước Quốc tịch Việt nam.
Ngoài ra theo thông lệ quốc tế, Chủ tịch nước có toàn quyền quyết định đối với những vấn đề về ngoại giao có tính nghi lễ hình thức.
2. Thẩm quyền của Chủ tịch nước trong lĩnh vực lập pháp và quan hệ của Chủ tịch nước với cơ quan lập pháp (Quốc hội)
* Trong lĩnh vực lập pháp Chủ tịch nước có quyền:
- Trực tiếp ban hành văn bản pháp luật như: Lệnh, Quyết định… để thực hiện chức năng nguyên thủ quốc gia của mình (Điều 106, Hiến pháp 1992).
- Trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật, thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi bổ sung luật hiện hành (Điều 62, Luật tổ chức Quốc hội).
- Chủ tịch nước công bố Hiến pháp, Luật và Pháp lệnh. Đây là một công đoạn của qui trình lập pháp. Đối với Hiến pháp, Luật và một số Nghị quyết có tính qui phạm do Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố để thực hiện. Thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày thông qua (Điều 50, Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật, Điều 91, Luật tổ chức Quốc hội). Văn bản qui phạm pháp luật có hiệu lực pháp luật kể từ ngày công bố hoặc theo qui định của văn bản.
- Chủ tịch nước có quyền công bố hoặc có quyền đề nghị sửa đổi, xem xét lại đối với Pháp lệnh do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua trong thời hạn 10 ngày, sau khi xem xét lại mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì trình Quốc hội quyết định ( Điều 103, mục 7, Hiến pháp 1992 sửa đổi). Trong Hiến pháp 1992 Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại cả Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, nhưng trong Hiến pháp 1992 sửa đổi đã bỏ qui định này.
*Trong quan hệ với Quốc hội Chủ tịch nước có trách nhiệm và nghĩa vụ như sau:
- Chủ tịch nước do Quốc hội bầu.
- Chủ tịch nước có thể tham dự các phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội triệu tập Quốc hội họp bất thường.
- Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
- Chủ tịch nước có thể đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh cao cấp nhất của bộ máy Hành pháp và Tư pháp.
- Chủ tịch nước có thể bị Đại biểu Quốc hội chất vấn và phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp hoặc trả lời trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, hoặc trả lời bằng văn bản. (Điều 98 Hiến pháp 1992)
- Khi Chủ tịch nước mất tín nhiệm hoặc không có khả năng thực thi nhiệm vụ, Chủ tịch nước có thể bị Quốc hội bãi nhiệm.
Trong các nhà nước Tư sản, nguyên thủ quốc gia có quyền phủ quyết các dự luật đã được Quốc hội, Nghị viện thông qua và có thể giải tán Quốc hội. Chủ tịch nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam không có quyền phủ quyết này1. Điều đó xuất phát từ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở nước ta: tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, mọi quyền lực nhà nước đều tập trung vào Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại quốc gia; không một cơ quan nào, kể cả Chủ tịch nước có quyền ra những quyết định mâu thuẫn với các văn bản của Quốc hội. Như trên đã phân tích Chủ tịch nước chỉ có quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và cơ quan quyết định cuối cùng, tối cao vẫn là Quốc hội.
3. Thẩm quyền của Chủ tịch nước trong lĩnh vực hành pháp và quan hệ của Chủ tịch nước với cơ quan hành pháp (Chính phủ).
- Chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ: có thể đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng chính phủ. Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội trực tiếp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
- Chủ tịch nước giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, nghe báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ.
- Khi xét thấy cần thiết, Chủ tịch nước có quyền tham gia các phiên họp của Chính phủ.
- Chủ tịch nước có thể ra lệnh, hoặc quyết định để Thủ tướng chính phủ làm căn cứ ra quyết định, chỉ thị trong quản lý và điều hành các vấn đề kinh tế xã hội.
Nhìn chung thẩm quyền của Chủ tịch nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam trong lĩnh vực hành pháp không lớn như Tổng thống trong các nhà nước Tư sản. Điều này cũng xuất phát từ nguyên tắc tổ chức quyền lực của nhà nước ta: mọi quyền lực nhà nước đều tập trung vào Quốc hội, quyền hành của các cơ quan nhà nước khác đều xuất phát từ Quốc hội với những thẩm quyền do pháp luật qui định trên cơ sở phân công phân nhiệm các công việc nhà nước.
4. Thẩm quyền của Chủ tịch nước trong lĩnh vực tư pháp và giám sát.
- Chủ tịch nước giới thiệu, đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Chủ tịch nước trực tiếp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Chủ tịch nước căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội công bố quyết định đại xá.
- Chủ tịch nước có quyền đặc xá, xem xét quyết định ân giảm án tử hình.
- Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Chủ tịch nước trong thời gian Quốc hội không họp.
Vai trò giám sát của Chủ tịch nước không được qui định cụ thể thành điều khoản trong Hiến pháp nhưng qua việc thực thi thẩm quyền, chức năng của Chủ tịch nước mà hoạt động giám sát của Chủ tịch nước được thực hiện. Đó là thẩm quyền đề nghị và trực tiếp bổ nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm các quan chức cấp trưởng và cấp phó của các cơ quan hành pháp và tư pháp, các bộ trưởng, thẩm phán, kiểm sát viên.
Chủ tịch nước có thể giám sát hoạt động của Chính phủ và các cơ quan tư pháp thông qua việc nghe báo cáo và cho ý kiến về các báo cáo của các cơ quan này. Chủ tịch nước có thể trực tiếp tham dự các phiên họp của Chính phủ khi cần thiết để giám sát hoạt động và cho ý kiến đối với bộ máy hành pháp.

5. Thẩm quyền của Chủ tịch nước trong lĩnh vực an ninh- quốc phòng
Hiến pháp của nước ta qui định thẩm quyền quyết định về chiến tranh và hoà bình thuộc về Quốc hội. Nhưng với cương vị là nguyên thủ quốc gia – người đứng đầu nhà nước, Chủ tịch nước là thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh.
Chủ tịch nước có quyền căn cứ vào Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng địa phương.
Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Chủ tịch nước tuyên bố quyết định tình trạng chiến tranh.
6. Thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc tặng thưởng các danh hiệu vinh dự, các hàm cấp nhà nước.
- Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân.
- Quyết định phong hàm cấp đại sứ và hàm cấp trong các lĩnh vực khác (như khoa học giáo dục, y tế...).
- Quyết định tặng thưởng huân, huy chương, giải thưởng nhà nước và các danh hiệu vinh dự nhà nước khác.
III. THỦ TỤC BẦU CHỦ TỊCH NƯỚC VÀ PHÓ CHỦ TỊCH NƯỚC
Ở các nhà nước Tư sản, thủ tục xác lập nguyên thủ quốc gia biểu hiện rất đa dạng. Đa số các nhà nước trên thế giới xác lập nguyên thủ quốc gia bằng bầu cử phổ thông hoặc Quốc hội (Nghị viện) bầu. Có những nhà nước theo truyền thống Nhà vua chỉ định ra nguyên thủ quốc gia, có những nhà nước nguyên thủ quốc gia chỉ nằm trong một dòng họ, cha truyền con nối.
Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam được lập ra bằng bầu cử. Theo qui định của Hiến pháp 1992, Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số Đại biểu Quốc hội (Điều 102).
Như vậy ứng cử viên để bầu Chủ tịch nước phải là Đại biểu Quốc hội. Điều 71 Luật tổ chức Quốc hội còn ghi rõ: Quốc hội bầu Chủ tịch nước trong số các Đại biểu Quốc hội do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giới thiêụ. Hiến pháp 1992 không qui định tuổi của các ứng cử viên Chủ tịch nước. Hiến pháp chỉ qui định tuổi của các ứng cử viên Đại biểu Quốc hội phải từ 21 tuổi trở lên (Điều 54). ( Ở nước ta chỉ có Hiến pháp 1946 qui định ứng cử viên Chủ tịch nước phải từ 35 tuổi trở lên.) Như vậy chúng ta có thể hiểu ứng cử viên Chủ tịch nước phải là công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam có đủ 21 tuổi trở lên.
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước là 5 năm, theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Chủ tịch nước mới. Tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá Quốc hội, Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước. Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ của mình từ kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá trước đến kỳ họp đầu tiên Quốc hội khoá sau.
Hiến pháp 1992 còn qui định chức danh Phó chủ tịch nước. Phó chủ tịch nước giúp Chủ tịch nước làm nhiệm vụ, và có thể thực hiện một số nhiệm vụ của Chủ tịch nước khi được Chủ tịch nước uỷ quyền.
Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong thời gian dài, thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch. Trường hợp khuyết Chủ tịch thì Phó chủ tịch quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch mới.
Phó chủ tịch nước được Quốc hội bầu ra trong số các Đại biểu Quốc hội theo sự giới thiệu của Chủ tịch nước. Tại Hiến pháp năm 1946 qui định Phó chủ tịch nước chọn trong nhân dân và bầu theo lệ thường.
IV. HỘI ĐỒNG QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
Giữ vững an ninh, chính trị, trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ sự tồn tại của quốc gia là nhiệm vụ quan trọng của mọi chế độ nhà nước. Ở nước ta, bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc phòng là sự nghiệp của toàn dân. Hội đồng quốc phòng và an ninh lập ra có nhiệm vụ động viên mọi lực lượng và khả năng của nhà nước, của nhân dân để bảo vệ Tổ quốc.
Hội đồng quốc phòng và an ninh được qui định tại điều 104 Hiến pháp 1992. Theo đó Hội đồng quốc phòng an ninh có thành phần gồm: Chủ tịch, Phó chủ tịch và các uỷ viên. Chủ tịch nước với tư cách là nguyên thủ quốc gia thống lĩnh các lực lượng vũ trang, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Chủ tịch nước đề nghị danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng an ninh trình Quốc hội phê chuẩn. Thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội. Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số.
Trong điều kiện bình thường về an ninh xã hội, Hội đồng quốc phòng và an ninh hoạt động không mấy nổi bật, thậm chí không cần thiết phải hoạt động. Nhưng trong tình trạng chiến tranh hay trong tình trạng khẩn cấp, Hội đồng quốc phòng và an ninh có rất nhiều quyền lực, thậm chí những quyền hạn đặc biệt được Quốc hội giao cho để trong thời gian sớm nhất chấm dứt tình trạng chiến tranh, lập lại trật tự xã hội


CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP

1. So sánh vị trí của Chủ tịch nước trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980,1992 ở nước ta.
2. Thẩm quyền của Chủ tịch nước trong các vấn đề đối ngoại, đối nội.
3. Phân tích mối quan hệ của Chủ tịch nước với Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp.
4. Vai trò, chức năng của Hội đồng quốc phòng an ninh.

CHƯƠNG XIV
CHÍNH PHỦ
I. VỊ TRÍ VÀ TÍNH CHẤT CỦA CHÍNH PHỦ.
Chính phủ được thành lập ở tất cả các chính thể. Đó là cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước theo nguyên tắc tập thể có thẩm quyền chung thực hiện hoạt động quản lý hành chính của Nhà nước (quyền hành pháp). Trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính phủ là trung tâm đời sống chính trị xã hội của mỗi quốc gia.
Chính phủ ở các nước khác nhau có những tên gọi khác nhau1. Ở Việt Nam Chính phủ được đóng một vai trò quan trọng trong bộ máy nhà nước, điều đó đã được thể hiện trong việc qui định vị trí của Chính phủ trong Hiến pháp Việt Nam.
1. Vị trí của Chính phủ
Điều 109 Hiến pháp 1992 sửa đổi đã qui định:
“Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; đảm bảo việc thực hiện bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở; đảm bảo việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”.
Vị trí của Chính phủ đã được qui định trong Hiến pháp, từ Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và đến Hiến pháp 1992, cũng như Hiến pháp sửa đổi hện nay. Những qui định tuy có khác nhau trong các bản Hiến pháp song Chính phủ đều được xác định là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất. Hiến pháp được 1946 điều thứ 43 qui định “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà”.
Hiến pháp 1959 điều 71 qui định:
“Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà...”
Hiến pháp 1980 điều 104 qui định:
“Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất...”.
Và Hiến pháp 1992 cũng như như Hiến pháp sửa đổi hiện nay đều qui định tại điều 109.
Qua các qui định của Hiến pháp và trên thực tế hoạt động của Chính phủ đã xác định rõ vị trí của Chính phủ, điều đó còn có nghĩa là vị trí đó được xác định bởi các mối quan hệ giữa Chính phủ và cơ quan nhà nước khác ở Trung ương và địa phương, thông qua việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã được Hiến pháp và luật qui định.
2. Về tính chất của Chính phủ
Xuất phát từ vị trí của Chính phủ như đã nêu ở trên chúng ta thấy Chính phủ là cơ quan thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của quyền lực Nhà nước, thực chất hoạt động này là thực hiện quyền hành pháp, hay nói cách khác hoạt động của Chính phủ là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực hành pháp. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Điều 83 Hiến pháp 1992 sửa đổi qui định:
“... Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước...”.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” và theo qui định tại điều 84 của Hiến pháp 1992 sửa đổi Quốc hội còn ban hành Hiến pháp, luật...
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội có trách nhiệm phải thể chế hoá Hiến pháp, luật và nghị quyết thông qua các hoạt động của mình khi thực hiện các quyền theo quy định của Hiến pháp và luật.
Với tính chấp hành Chính phủ có hoạt động ban hành các văn bản dưới luật và để đảm bảo cho việc thi hành các văn bản luật của Quốc hội Chính phủ còn phải thực hiện các hoạt động điều hành để quản lý xã hội.
Vì vậy chấp hành và điều hành luôn được gắn bó với nhau như là hai mặt biểu hiện của hoạt động hành pháp của Chính phủ và nó càng thể hiện được tính chất của Chính phủ.
Ở Việt Nam quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền; lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba quyền này không ngừng được hoàn thiện thông qua hoạt động của hệ thống các cơ quan của bộ máy nhà nước. Xét về tính chất chung thì hoạt động quản lý hành chính Nhà nước còn được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước từ cơ quan Quốc hội, Chính phủ, Toà án và Viện kiểm sát song những hoạt động hành chính đó ở trong những phạm vi nhất định. Còn hoạt động quản nhiệm vụ và quyền hạn được qui định trong Hiến pháp 1992 sửa đổi và trong Luật tổ chức Chính phủ được Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 12 năm 2001.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ cũng đã từng được qui định trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp1992, Cũng như được qui định trong Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ, Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng, luật tổ chức Chính phủ nm 1992. Hiện nay theo qui định của Hiến pháp 1992 sửa đổi và Luật tổ chức Chính phủ 2001 thẩm quyền của Chính phủ được thể hiện rõ qua việc xác định nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ.
Với vị trí, tính chất là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất, cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước trong hoạt động hành pháp Chính phủ thống nhất việc quản lý các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng và đối ngoại...
Để thực hiện được các nhiệm vụ mà Hiến pháp 1992 sửa đổi đã qui định tại điều 109, Hiến pháp còn qui định tại điều 112 về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ. Nếu như trước đây nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ đã được Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp 1992 cũng như các luật trước đó đã qui định chúng ta thấy nhiệm vụ và quyền hạn chưa được đầy đủ và còn có nhiều qui định chung chung, thì hiện nay điều đó đã được qui định khá đầy đủ những nhiệm vụ và các quyền quan trọng trong đời sống xã hội. Điều 112 có qui định Chính phủ:
- Lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan trực thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy hành chính Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, hướng dẫn kiểm tra Hội đồng nhân dân từ Trung ương đến cơ sở; hướng dẫn kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức Nhà nước.
- Chính phủ đảm bảo việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân...
- Chính phủ trình các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
- Chính phủ thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân, thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia...
- Chính phủ thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ...
- Chính phủ củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội...
- Chính phủ tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra Nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước...
- Chính phủ thống nhất quản lý công tác đối ngoại, Đàm phán ký kế đièu ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam... Đàm phán, ký, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ ...
- Chính phủ thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo.
- Chính phủ quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Chính phủ phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình...
Trên cơ sở qui định chung về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ. Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 đã qui định cụ thể và chi tiết trên các lĩnh vực sau:
2.1. Nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực kinh tế:
- Chính phủ thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; củng cố và phát triển kinh tế nhà nước ... Nếu như trước đây Chính phủ thực hiện quyền này trong một cơ chế bao cấp chủ yếu ra các chỉ tiêu pháp lệnh mang tính mệnh lệnh hành chính nặng tính quan liêu hơn thế nữa lại còn quản lý trực tiếp các đơn vị kinh tế thì hiện nay với nền kinh tế mới Chính phủ đã và đang có các hình thức và phương pháp thích hợp để đẩy mạnh sự phát triển nền kinh tế xã hội.
Đối với kinh tế quốc doanh ở những ngành và các lĩnh vực then chốt Chính phủ luôn hướng vào việc củng cố và phát triển để đảm bảo được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân bên cạnh đó củng cố mở rộng các hợp tác xã hoạt động đem lại hiệu quả, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển.
- Quyết định chính sách cụ thể thực hiện công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn;
- Chính phủ xây dựng dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội dài hạn , năm năm, hàng năm trình quốc hội ; chỉ đạo thực hịên chiến lược , quy hoạch , kế hoạch đó ;
- Trình Quốc hội dự toán ngân sách Nhà nước, dự kiến phân bổ ngân sách Trung ương và mức bổ sung từ ngân sách Trung ương cho ngâ n sách địa phươ ng...
- Chính phủ còn quyết định các chính sách cụ thể, các biện pháp về tài chính, tiền tệ, tiền lương... theo qui định của pháp luật Chính phủ thống nhất quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân, tài nguyên quốc gia. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế mở hiện nay Chính phủ có quyền thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động về kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức quan hệ với các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế...
2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và môi truờng:
- Chính phủ thống nhất quản lý và phát triển hoạt động khoa học và công nghệ; chỉ đạo thực hiện chính sách, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ;
- Quyết định chính sách cụ thể về khoa học và công nghệ để bảo đảm phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, ưu tiên đầu tư cho những hướng khoa học công nghệ hiện đại, công nghệ cao...
- Thống nhất quản lý các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, hệ thống thông tin khoa học và công nghệ...
- Thống nhất quản lý tiêu chuẩn đo lường, chất lượng sản phẩm, sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ;
- Quyết định chính sách cụ thể về bảo vệ, cải thiện và giữ gìn môi trường...
2.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thông tin, thể thao và du lịch:
- Chính phủ thống nhất quản lý và phát triển sự nghiệp văn hóa, văn học nghệ thuật; quy định các biện pháp để bảo tồn , phát triển nền văn hóa tiên tiến , đậm đà bản sắc dân tộc; bảo vệ và phát huy di sản văn hóa...
- Quyết định chính sách cụ thể về giáo dục để bảo đảm phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu...
- Thống nhất quản lý và phát triển sự nghiệp thông tin, báo chí...
- Thống nhất quản lý và pháp triển sự nghiệp thể dục , thể thao, tạo điều kiện để mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động thể dục, thể thao quần chúng...
- Quyết định chính sách cụ thể nhằm đẩy mạnh phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn...
2.4. Nhiệm vụ và quyền hạn cuả Chính phủ trong lĩnh vực y tế, xã hội:
- Quyết định chính sách cụ thể nhằm hướng nghiệp, tạo việc làm, cải thiện điều kiện làm việc, an toàn lao động, vệ sinh lao động...
- Thống nhất quản lý và phát triển sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhan dân, huy động và tổ chức mọi lực lượng xã hội xây dựng và phát triển nền y học Việt Nam ...
- Thực hiện chính sách yêu đãi đối với thương binh, liệt sĩ, gia đình liệt sĩ...
- Thực hiện chính sách và biện pháp bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, gia đình...
- Thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình...
- Tổ chức tạo điều kiện cho thanh niên được học tập, lao động và giải trí...
- Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa và đấu tranh, ngăn chặn các tai nạn, tệ nạn xã hội.
2.5. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực dân tộc và tôn giáo:
- Quyết định chính sách, các biện pháp cụ thể nhằm đảm bảo thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc...
- Quyết định chính sách cụ thể, các biện pháp ưu tiên phát triển mọi mặt ở các vùng dân tộc thiểu số...
- Thực hiện chính sách ưu tiên phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nguồn nhân lực, chương trình chăm sóc sức khỏe cho đồng bào miền núi, dân tộc thiểu số...
- Thực hiện chính sách tôn giáo , bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào của công dân; bảo đảm sự bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật...
2.6. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội:
- Tổ chức thực hiện chính sách, biện pháp cụ thể để củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, quốc phòng, an ninh với kinh tế nhằm bảo đảm an ninh, chủ quyền quốc gia, toàn vện lãnh thổ và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa...
-Thực hiện chính sách ưu đãi, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần và chính sách hậu phương đối với các lực lượng vũ trang nhân dân;
- Tổ chức và thực hiện các biện pháp phòng ngừa và đấu tranh chống các loại tội phạm, các vi phạm pháp luật.
2.7. Trong lĩnh vực đối ngoại :
- Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ , mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; chủ động hôị nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi; quyết định các chủ trương và biện pháp để tăng cường và mở rộng quan hệ với nước ngoài và các tổ chức quốc tế...
Ngoài những nhiệm vụ và quyền hạn ở các lĩnh vực trên, Chính phủ còn có nhiệm vụ và quyền hạn ở một số lĩnh vực như lĩnh vực tổ chức hệ thống hành chính nhà nước; đối với Hôị đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; trong lĩnh vực pháp luật và hành chính tư pháp mà luật tổ chức Chính phủ năm 2001 đã quy định.
Là một cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, là cơ quan đứng đầu hệ thống cơ quan hành chính, Chính phủ lãnh đạo, điều hành toàn bộ hệ thống hành chính thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Chính phủ có quyền quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể các cơ quan thuộc Chính phủ, qui định nhiệm vụ, quyền hạn, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trên.
Trong quá trình thực hiện quyền lực Nhà nước trong hoạt động hành pháp Chính phủ thống nhất sự chỉ đạo thường xuyên từ Trung ương đến cơ sở đảm bảo cho hoạt động hành chính không bị ách tắc, mang tính liên tục và để có được hiệu quả.
Về địa giới hành chính đối với cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Chính phủ có quyền đề nghị với Quốc hội quyết định việc thành lập mới hoặc nhập, chia tỉnh. Đối với đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, Chính phủ được quyền phân chia địa giới hành chính theo qui định của pháp luật.
Đối với đội ngũ viên chức và công chức Nhà nước Chính phủ cũng được quyền quản lý thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Do đó Chính phủ thực hiện chương trình, kế hoạch đào tạo, tuyển dụng và bôi dưỡng đội ngũ viên chức, công chức...
Như vậy để thực hiện được chức năng của mình trong một cơ chế mới, một nền kinh tế mới, Chính phủ đã có thẩm quyền quản lý hành chính. Nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo qui định của pháp luật.
II. CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ CÁCH THỨC THÀNH LẬP CHÍNH PHỦ
1. Về cơ cấu tổ chức
Trong Hiến pháp 1992 sửa đổi và trong Luật tổ chức Chính phủ 2001 đã qui định về cơ cấu tổ chức của Chính phủ.
Tại điều 110 Hiến pháp 1992 sửa đổi qui định:
“Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác... Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội...
Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng...”
Tại điều 3 Luật tổ chức Chính phủ 2001 qui định:
“Chính phủ gồm có:
- Thủ tướng Chính phủ;
- Các phó Thủ tướng;
- Các Bộ trưởng, và Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ.
Số phó Thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ do Quốc hội quyết định.
Thủ tướng do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước...
Thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm , miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với phó Thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ”.
Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ. Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước...
Như vậy cách thức tổ chức của Chính phủ đã được Hiến pháp và Luật tổ chức Chính phủ qui định rất rõ ràng. Cơ cấu này cũng đã từng được qui định trong các Hiến pháp 1946 ( điều 44), Hiến pháp 1959( điều 72) và Hiến pháp 1980 (điều 108).
Trong nửa thế kỷ qua cơ cấu tổ chức của Chính phủ luôn có sự thay đổi để bộ máy hành chính gọn nhẹ và hoạt động có hiệu quả, đáp ứng với nhiệm vụ trong từng giai đoạn.

CƠ CẤU CỦA CHÍNH PHỦ
CHÍNH PHỦ
- Thủ tướng
- Các phó Thủ tướng
- Các Bộ trưởng
- Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ
20 Cơ quan Bộ
6 CQ Ngang Bộ
Q
P
T
P
G
T
V
G
D
Đ
X
D
T
C
N
V
Y
T
N
N
&
B
C
V
C
A
N
G
T
M

T
V
H
T
T
S
K
H
Đ
C
N
T
N
M
K
H
C
UB TDTT
TT NN
NHNN
VPCP
UB DT
UBDSGD& TE



















2. Cách thức thành lập Chính phủ.
Với tính chất là cơ quan thi hành Hiến pháp và luật, cơ quan thực hiện quyền hành pháp để quản lý toàn bộ các quá trình xã hội trên các lĩnh vực. Là cơ quan do cơ quan quyền lực Nhà nước thành lập, do vậy cách thức thành lập của Chính phủ phụ thuộc vào thẩm quyền của Quốc hội.
Để thấy rõ được cách thức thành lập của Chính phủ một cách có hệ thống chúng ta lần lượt xem xét cách thức thành lập của Chính phủ theo quy định của 4 bản Hiến pháp sau:
- Theo qui định của Hiến pháp 1946:
Điều thứ 43 quy định cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà. Điều thứ 44 quy định Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Phó Chủ tịch và Nội các. Và theo qui định của Hiến pháp Chủ tịch nước được chọn trong Nghị viện nhân dân và phải được hai phần ba tổng số nghị viện bỏ phiếu thuận. Chủ tịch nước bầu với thời hạn là 5 năm và có thể được bầu lại.
Trong vòng một tháng trước khi hết nhiệm kỳ của Chủ tịch, Ban thường vụ phải triệu tập Nghị viện để bầu Chủ tịch mới.
Phó Chủ tịch nước được chọn trong nhân dân và bầu theo lệ thường.
Thủ tướng được vị Chủ tịch nước chọn trong số các nghị viện và đưa ra biểu quyết tại Nghị viện. Các vị Bộ trưởng cũng được Thủ tướng chọn trong số các nghị viện và được Nghị viện biểu quyết. Còn các Thứ trưởng thì có thể không phải là nghị viện do Thủ tướng đưa ra Hội đồng Chính phủ sẽ duyệt y.
- Theo quy định của Hiến pháp 1959:
Tại điều 71 qui định: Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà...
Hội đồng Chính phủ do Quốc hội cử ra theo đề nghị của Chủ tịch nước.
Phó Thủ tướng cũng do Quốc hội quyết định cử theo đề nghị của Thủ tướng.
Các thành viên khác của Chính phủ cũng do Quốc hội quyết định theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.
- Hiến pháp 1980 qui định:
Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất...
Do vậy tổ chức của Hội đồng Bộ trưởng do Quốc hội qui định.
Quốc hội bầu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, bầu ra các Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và các thành viên khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng.
Tại điều 2 Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng1 qui định:
Hội đồng bộ trưởng do Quốc hội bầu ra tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội.
Hội đồng Bộ trưởng gồm có:
- Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
- Các Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
- Các Bộ trưởng và chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước.
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng là đại biểu Quốc hội. Các thành viên khác của Hội đồng Bộ trưởng chủ yếu chọn trong số các đại biểu Quốc hội.
- Hiến pháp 1992 qui định Chính phủ được thành lập như sau:
Trước hết chúng ta đều thấy Hiến pháp đã xác định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (điều 109).
Chính vì vậy Chính phủ cũng do Quốc hội thành lập.
Quốc hội bầu ra Thủ tướng Chính phủ, đồng thời phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm các Phó thủ tướng, các Bộ trưởng cũng như các thành viên khác của Chính phủ.
Các bộ và các cơ quan ngang bộ do Quốc hội quyết định thành lập theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.
Ngoài ra còn theo qui định của Luật tổ chức Chính phủ1 ta thấy số Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đều do Quốc hội quyết định.
Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu theo đề nghị của Chủ tịch nước.
Các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm căn cứ Nghị quyết của Quốc hội hoặc Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Như vậy qua bốn bản Hiến pháp chúng ta thấy được cách thức thành lập của Chính phủ có qui định không giống nhau. Song về cơ bản thì nó đều do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất thành lập ra. Hiện nay cách thức thành lập của Chính phủ được Hiến pháp 1992 sửa đổi và Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 quy định.
III. CÁC HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ
Hoạt động của Chính phủ đã được qui định tại điều 6 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001. Trước hết Chính phủ được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
“... Hiệu quả hoạt động của Chính phủ được đảm bảo bằng hiệu quả hoạt động của tập thể Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ và của từng thành viên Chính phủ.
Chính phủ thảo luận tập thể và quyết định theo đa số...”
Căn cứ vào qui định trên hoạt động của Chính phủ được thể hiện cụ thể dưới các hình thức sau:
1. Tập thể Chính phủ (các phiên họp của Chính phủ):
Đây là hình thức quan trọng và chủ yếu nhất của Chính phủ. Nó được thể hiện thông qua hoạt động tập thể của Chính phủ. Mỗi tháng Chính phủ họp thường kỳ một lần, ngoài ra Chính phủ có thể có phiên họp n dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch đoàn Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và những người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn về những vấn đề có liên quan đến tổ chức đó.
Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng được mời đến để dự phiên họp.
Tại các phiên họp của Chính phủ được đưa ra các qui định và thảo luận những nội dung quan trọng nhất thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, như việc đưa ra các chương trình hoạt động hàng năm của Chính phủ, các dự án luật và pháp lệnh trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Các dự án kế hoạch, các công trình quan trọng, dự toán ngân sách Nhà nước, phân bố ngân sách, quyết toán ngân sách năm.
Chính phủ đưa ra các chính sách cụ thể về phát triển kinh tế xã hội, tài chính, tiền tệ và các vấn đề quan trọng về quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đưa ra các đề án đệ trình Quốc hội về việc thành lập, sáp nhập và giải thể các Bộ, cơ quan ngang Bộ, việc thành lập mới, việc nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Quyết định việc thành lập, sáp nhập và giải thể cơ quan thuộc Chính phủ...
Theo qui định của pháp luật, các quyết định của Chính phủ được thể hiện dưới hình thức là Nghị quyết và Nghị định.
2. Hoạt động của Thủ tướng Chính phủ :
Theo qui định của pháp luật, Thủ tướng Chính phủ là người đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước về hoạt động của Chính phủ. Thủ tướng được Quốc hội giao cho nhiều nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng do vậy Thủ tướng có vai trò rất quan trọng trong Chính phủ.
Hoạt động của Thủ tướng nhằm để thực hiện việc lãnh đạo công tác các Chính phủ, các thành viên của Chính phủ, Thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp.
Thủ tướng quyết định các chủ trương, biện pháp cần thiết để lãnh đạo và điều hành hoạt động của Chính phủ và cả hệ thống hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Thủ tướng qui định chế độ làm việc với thành viên Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương. Chỉ đạo phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ...
Thủ tướng quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng và các chức vụ tương đương. Thủ tướng phê chuẩn việc bầu cử các thành viên Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương...
Theo qui định của pháp luật. Thủ tướng Chính phủ khi thực hiện các hoạt động của mình được ra các quyết định dưới hình thức là các quyết định và chỉ thị.
3. Hoạt động của các thành viên Chính phủ (Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ):
Ngoài các phiên họp của Chính phủ và hoạt động của Thủ tướng thì hình thức hoạt động của Chính phủ còn được thông qua hoạt đông của các thành viên thuộc Chính phủ. Theo qui định của Luật tổ chức Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ có các nhiệm vụ quyền hạn nhất định để thực hiện hoạt động quản lý Nhà nước thuộc các lĩnh vực chuyên môn như:
- Được trình Chính phủ các kế hoạch dài hạn, kế hoạch năm năm cũng như các kế hoạch hàng năm của mỗi ngành mình. Đồng thời trực tiếp tổ chức và chỉ đạo việc thực hiện các kế hoạch trên phạm vi cả nước.
- Các thành viên thuộc Chính phủ được quyền chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác do Chính phủ phân công.
- Được trình với Chính phủ việc ký kết, tham gia và phê duyệt các điều ước quốc tế thuộc ngành, lĩnh vực quản lý, đồng thời được tổ chức và chỉ đạo việc thực hiện các kế hoạch về hợp tác quốc tế và các điều ước quốc tế theo các qui định của Chính phủ.
Ngoài một số các qui định chung nêu trên các Bộ trưởng và các thành viên thuộc Chính phủ còn thực hiện các hoạt động cụ thể trên các lĩnh vực theo qui định tại Nghị định số 86/2002/NĐ - CP ngày 5-11-2002. Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ.
Và cũng theo qui định của pháp luật các Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ khi thực hiện các hoạt động công vụ được quyền ra các quyết định dưới các hình thức là các chỉ thị và thông tư.
Như vậy, hoạt động của Chính phủ được thực hiện thông qua hoạt động của tập thể Chính phủ của vị Thủ tướng Chính phủ và của các thành viên Chính phủ. Vì vậy hiệu quả hoạt động của Chính phủ hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của các hình thức hoạt động trên.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP

1. Vị trí của Chính phủ trong Bộ máy nhà nước.
2. Thẩm quyền của Chính phủ.
3. Cơ cấu tổ chức và cách thức thành lập Chính phủ.
4. Hoạt động của Chính phủ.
CHƯƠNG XV
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

Trong sách báo pháp lý hiện nay, đa số các quan điểm đều cho rằng Hội đồng nhân dân cùng với Uỷ ban nhân dân được quan niệm là chính quyền địa phương[3]. Theo quan niệm có tính truyền thống, bộ máy nhà nước được chia thành bốn hệ thống như sau: hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, hệ thống cơ quan quản lý hành chính nhà nước, hệ thống cơ quan toà án, hệ thống cơ quan kiểm sát. Trong đó, Hội đồng nhân dân là cơ quan thuộc hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước. Hiện nay, có quan điểm xem Hội đồng nhân dân thuộc hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, nghĩa là được xếp cùng loại cơ quan với Uỷ ban nhân dân. Nhưng quan điểm này chưa có sức thuyết phục, vì không chỉ Hội đồng nhân dân mà các cơ quan nhà nước khác như Uỷ ban nhân dân, Toà án, Viện kiểm đều là các cơ quan chấp hành pháp luật. Và, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyết nghị, hoạt động theo chế độ hội đồng quyết định các vấn đề lớn ở địa phương và thực hiện việc giám sát... Điều này rất khác với cách thức, chế độ hoạt động của cơ quan quản lý hành chính nhà nước và các loại cơ quan toà án, kiểm sát.
Tính đến nay, Nhà nước ta đã ban hành các văn bản chủ yếu về chính quyền địa phương sau đây:
- Giai đoạn từ năm 1945 đến trước Hiến pháp 1959: Sắc lệnh số 63 ngày 23/11/1945, Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 về tổ chức chính quyền địa phương ở nông thôn và đô thị (mô hình tổ chức chính quyền địa phương này về cơ bản được ghi nhận trong Hiến pháp 1946), Luật tổ chức chính quyền địa phương ngày 29/4/1958;
- Giai đoạn từ Hiến pháp 1959 đến trước Hiến pháp 1980: Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp ngày 27/10/1962;
- Giai đoạn từ Hiến pháp 1980 đến trước Hiến pháp 1992: Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 30/6/1983, và thay thế Luật này là Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 30/6/1989;
- Giai đoạn từ Hiến pháp 1992 đến nay: Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 21/6/1994 và thay thế Luật này là Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003.
Dưới đây đề cập Hội đồng nhân dân theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003 đang có hiệu lực thi hành.
1. Vị trí và tính chất của Hội đồng nhân dân.
Để thực hiện được việc quản lý được các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng… của đời sống đất nước, quyền lực nhà nước được tổ chức không chỉ ở trung ương mà phải ở cả địa phương, bằng cách chia lãnh thổ quốc gia thành các đơn vị hành chính (tỉnh, huyện, xã…), trên đó thiết lập các cơ quan nhà nước nhất định. Theo pháp luật hiện hành thì các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã (sau đây gọi chung là cấp huyện);
Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường (sau đây gọi chung là cấp xã).
Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở các đơn vị hành chính do luật định (Điều 118 Hiến pháp 1992).
Mặc dù Hiến pháp 1992 bỏ ngỏ việc thành lập Hội đồng nhân dân ở mỗi cấp hành chính cho văn bản luật quy định, nhưng theo các Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 1994 và mới đây, thay thế Luật này là Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003 thì Hội đồng nhân dân vẫn được tổ chức ở cả 3 đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.
Điều 119 của Hiến pháp 1992 quyết định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên” (Điều 119 Hiến pháp 1992). Quy định này đã thể hiện rõ vị trí pháp lý, vai trò của Hội đồng nhân dân trong bộ máy nhà nước. Hội đồng nhân dân là cơ quan giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương. Hội đồng nhân dân do nhân dân địa phương bầu ra và được nhân dân uỷ quyền trong việc sử dụng và bảo đảm thực hiện quyền lực nhà nước trên lãnh thổ địa phương. Với tư cách là người đại diện cho nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, Hội đồng nhân dân quyết định các chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy mọi tiềm năng và phát triển các mặt ở địa phương. Hội đồng nhân dân cũng là cơ quan thành lập ra Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của mình để tiến hành hoạt động quản lý hành chính ở địa phương. Hội đồng nhân dân kiểm soát hoạt động của cơ quan này về mọi mặt quan trọng: ngân sách, tổ chức, hoạt động, thi hành pháp luật... Ngoài ra, Hội đồng nhân dân còn thực hiện quyền giám sát việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động của các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát và các cơ quan nhà nước trung ương hoạt động ở địa phương, hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân. Trong tổng thể bộ máy nhà nước thống nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, có trách nhiệm chung về hoạt động của chính quyền địa phương trước cơ quan nhà nước cấp trên trong việc thực hiện pháp luật, quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên cũng như thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn nói chung của mình ở địa phương.
Như vậy, theo quy định của pháp luật, có thể nói Hội đồng nhân dân nước ta là cơ quan quyền lực nhà nước có quyền hạn to lớn ở địa phương, đồng thời là cơ quan có trách nhiệm về tình hình và hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương. Nó rất khác với hội đồng địa phương ở một số nước chỉ được xem là cơ quan tư vấn.
Hội đồng nhân dân có các tính chất chủ yếu sau:
A/ Tính đại diện. Đây là tính chất đặc thù có ở các cơ quan do nhân dân bầu ra để quyết nghị tập thể các vấn đề quan trọng, đề ra các chủ trương, biện pháp thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương, tiến hành hoạt động giám sát, kiểm soát hoạt động tuân thủ địa phương mà ở đây là Hội đồng nhân dân.
B/ Tính quyền lực nhà nước. Tính chất này gắn liền với tính đại diện thể hiện ở khả năng của Hội đồng nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước như một trung tâm quyền lực ở địa phương. Nội dung của quyền lực nhà nước của Hội đồng nhân dân thể hiện chủ yếu ở chỗ Hội đồng nhân dân là cơ quan có thẩm quyền xem xét và quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương, giám sát việc thi hành pháp luật…
C/ Tính chất hội đồng. Hoạt động căn bản của Hội đồng nhân dân là hoạt động của tập thể các đại biểu được các cử tri bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các quyết định quan trọng trong quản lý địa phương và trong tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân là quyết định của cả tập thể đại biểu qua thảo luận và biểu quyết.
2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân.
Chức năng là thuật ngữ chỉ những mặt hoạt động chủ yếu của Hội đồng nhân dân. Theo các quy định về Hội đồng nhân dân trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân nước ta, có thể khái quát các chức năng chủ yếu của Hội đồng nhân dân là:
Thứ nhất, quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương, chủ yếu là các vấn đề quản lý ở địa phương về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh…;
Thứ hai, bảo đảm việc thực hiện pháp luật và các quyết định của cấp trên tại địa phương;
Thứ ba, tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương. So với trước, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân 2003 xác định khả năng chi phối tăng lên của Hội đồng nhân dân đối với tổ chức Uỷ ban nhân dân.
Thứ tư, giám sát việc các cơ quan, tổ chức và công dân thi hành pháp luật và nghị quyết của mình tại địa phương.
Trước khi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được Quốc hội thông qua cuối năm 2003 thì có hai tới hai văn bản quy định cụ thể hoá quy định của Hiến pháp 1992 về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân là Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994 và Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp năm 1996. Hiện nay, các nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân về cơ bản đã được quy định trong một văn bản là Luật tổ chức Hội đồng nhân dân năm 2003. Luật này quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân trên các lĩnh vực cụ thể, trong đó, Hội đồng nhân dân quyết định các chủ trương, biện pháp quan trọng về mỗi lĩnh vực.
1. Trong lĩnh vực kinh tế, Hội đồng nhân dân quyết định quy hoạch, kế hoạch, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành và quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị, nông thôn; chủ tr­ương, biện pháp về xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác xã, tổ hợp tác và kinh tế hộ gia đình ở địa phương; quyết định quy hoạch, kế hoạch, biện pháp phát triển mạng lưới khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công; thông qua cơ chế khuyến khích phát triển sản xuất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển các thành phần kinh tế; quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định các chủ trương, biện pháp triển khai thực hiện ngân sách địa phương; quyết định phương án quản lý, giám sát việc thực hiện ngân sách; quyết định phương án phát triển và sử dụng nguồn nhân lực ở địa phương, v.v.
2. Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hóa, thông tin, thể thao, Hội đồng nhân dân quyết định: chủ trương, biện pháp phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo; quy hoạch, kế hoạch, biện pháp và điều kiện phát triển mạng lưới giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp; biện pháp bảo đảm các điều kiện cần thiết để trẻ em vào học tiểu học đúng độ tuổi, hoàn thành chư­ơng trình phổ cập giáo dục tiểu học, tổ chức các trư­ờng mầm non; biện pháp giáo dục, chăm sóc thanh niên, thiếu niên, nhi đồng; quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới khám chữa bệnh, biện pháp bảo vệ sức khoẻ nhân dân; chủ trương, biện pháp phát triển sự nghiệp văn hóa, thông tin, thể dục thể thao; biện pháp bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa ở địa phương; biện pháp bảo đảm cơ sở vật chất và điều kiện cho các hoạt động văn hóa, thông lin, thể dục thể thao ở địa phương; biện pháp phòng, chống tệ nạn xã hội; chủ trương, biện pháp phát triển nguồn nhân lực, sử dụng lao động, giải quyết việc làm và cải thiện điều kiện làm việc, sinh hoạt của người lao động, bảo hộ lao động; biện pháp thực hiện chính sách, chế độ ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với nước; thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội và xóa đói, giảm nghèo, v.v.
3. Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường, Hội đồng nhân dân quyết định: chủ trương, biện pháp khuyến khích việc nghiên cứu, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân ở địa phương; biện pháp quản lý và sử dụng đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển tại địa phương theo quy định của pháp luật; biện pháp bảo vệ và cải thiện môi trường; biện pháp bảo đảm vệ sinh, xử lý rác thải; phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt, suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường ở địa phương theo quy định của pháp luật; biện pháp thực hiện các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm; ngăn chặn việc sản xuất và lưu hành hàng giả, hàng kém chất lượng tại địa phương, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, v.v.
4. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, Hội đồng nhân dân quyết định: biện pháp thực hiện nhiệm vụ kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh và thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng dự bị động viên ở địa phương; biện pháp thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và quốc phòng toàn dân; bảo đảm thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, xây dựng lực lượng dự bị động viên, thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương; biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng ngừa, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương, v.v.
5. Trong việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, Hội đồng nhân dân quyết định: biện pháp thực hiện chính sách dân tộc, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao dân trí của đồng bào các dân tộc thiểu số, bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tăng cường đoàn kết toàn dân và tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc ở địa phương; các nhiệm vụ thực hiện chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa và vùng còn nhiều khó khăn; biện pháp thực hiện chính sách tôn giáo, quyền bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật; bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, v.v.
6. Trong lĩnh vực thi hành pháp luật, Hội đồng nhân dân quyết định: biện pháp bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của mình ở địa phương; biện pháp bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân; biện pháp bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước; bảo hộ tài sản của các cơ quan, tổ chức và cá nhân ở địa phương; biện pháp bảo đảm việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân theo quy định của pháp luật.
7. Trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính: bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ được bầu: Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên thường trực Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Trưởng ban và các thành viên khác của các ban của Hội đồng nhân dân; Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân cùng cấp; bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân và chấp nhận việc đại biểu Hội đồng nhân dân xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu theo quy định của pháp luật; phê chuẩn cơ cấu cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân; quyết định thành lập, sáp nhập, giải thể một số cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân; quyết định tổng biên chế sự nghiệp ở địa phương; thông qua tổng biên chế hành chính của địa phương trước khi trình cấp có thẩm quyền quyết định; quyết định chính sách thu hút và một số chế độ khuyến khích đối với cán bộ, công chức trên địa bàn; thông qua đề án thành lập mới, nhập, chia và điều chỉnh địa giới hành chính để đề nghị cấp trên xem xét, quyết định; bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định, chỉ thị trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp; giải tán Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp sau khi được phê chuẩn trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân, v.v.
Trong các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2003, cần chú ý:
1. Các nhiệm vụ, quyền hạn được quy định riêng cho mỗi cấp Hội đồng nhân dân tỉnh, huyện, xã, không quy định chung chung cho Hội đồng nhân dân như các luật về tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân theo Hiến pháp 1980. Có các nhiệm vụ, quyền hạn chỉ có ở cấp Hội đồng nhân dân này,không có ở cấp Hội đồng nhân dân khác, có nhiệm vụ, quyền hạn có cả ở ba cấp Hội đồng nhân dân…Ở đây cũng cần lưu ý là ngay ở mỗi cấp Hội đồng nhân dân, việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn còn tính đến tính đặc thù của Hội đồng nhân dân ở các vùng đô thị (thành phố trực thuộc trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, phường) và Hội đồng nhân dân thuộc địa bàn hải đảo (huyện hải đảo).
2. Các nhiệm vụ, quyền hạn được quy định khá rõ ràng và cụ thể. Vì vậy, đã hạn chế rất nhiều tình trạng nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp Hội đồng nhân dân, chính quyền địa phương nói chung giông giống nhau như trước. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một đạo luật, Luật 2003 chưa thể quy định được một cách chi tiết và đầy đủ các nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân mỗi cấp và các địa phương có tính đặc thù. Mặt khác, hiện nay chúng ta còn đang trong quá trình đẩy mạnh và hoàn chỉnh dần việc phân cấp quản lý nên cũng không thể thực hiện được điều đó.
3. Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
3.1. Đại biểu Hội đồng nhân dân.
Hội đồng nhân dân trước hết là một cơ quan nhà nước có tính chất hội đồng được hình thành từ một tập thể các đại biểu Hội đồng nhân dân được cử tri ở đơn vị hành chính nhất định bầu ra. Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định số đại biểu tối thiểu, tối đa cho mỗi cấp Hội đồng nhân dân tuỳ theo đặc điểm của mỗi đơn vị hành chính tương ứng. Các đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu ra theo nguyên tắc bầu cử tiến bộ phổ thông, bình đẳng…Tuy nhiên, để có cơ cấu đại biểu hợp lý có thể đại diện cho các tầng lớp xã hội, các thành phần dân cư ở địa phương, trong mỗi cuộc bầu cử, thông qua việc hiệp thương mà cơ cấu đại biểu của Hội đồng nhân dân được dự liệu và được thể hiện qua kết quả bầu của cử tri. Chẳng hạn, trong cơ cấu đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 1999- 2004, số đại biểu Hội đồng nhân dân là phụ nữ ở cấp tỉnh chiếm 22,23%, huyện: 20,12%, xã: 16,56%; số đại biểu Hội đồng nhân dân là người ngoài Đảng ở cấp tỉnh chiếm 15,49%, huyện: 14,62, xã: 30,45%.
Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật và tham gia quản lý nhà nước. Thông qua các hoạt động tập thể của mình và các hoạt động khác, các đại biểu Hội đồng nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước bảo đảm việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương. Để trở thành đại biểu Hội đồng nhân dân, người ứng cử trước hết phải phải có các tiêu chuẩn nhất định theo quy định của luật bầu cử. Nhiệm kỳ của đại biểu Hội đồng nhân dân bắt đầu từ kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khoá đó đến kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khoá sau.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có các nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của Hội đồng nhân dân. Nếu không thể tham dự được kỳ họp, phiên họp thì phải báo cáo trước với Chủ tịch Hội đồng nhân dân (đối với kỳ họp) hoặc Chủ tọa phiên họp (đối với phiên họp);
- Tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân;
- Liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu ra mình. Thực hiện chế độ tiếp xúc và ít nhất mỗi năm một lần báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời các yêu cầu, kiến nghị của cử tri.
Sau mỗi kỳ họp, có trách nhiệm báo cáo với cử tri về kết quả kỳ họp, phổ biến và giải thích các nghị quyết của Hội đồng nhân dân, vận động và cùng với nhân dân thực hiện nghị quyết đó.
- Thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri.
- Tiếp nhận và trả lời khiếu nại tố cáo của cử tri của cử tri. Khi nhận được khiếu nại, tố cáo của nhân dân, đại biểu có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết, đồng thời thông báo cho người khiếu nại, tố cáo biết. Người có thẩm quyền giải quyết phải xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời hạn pháp luật quy định và thông báo bằng văn bản cho đại biểu Hội đồng nhân dân biết kết quả.
- Có quyền có quyền chất vấn Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp.
Trong thời gian giữa hai kỳ họp, chất vấn được gửi đến Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp để chuyển đến người bị chất vấn và quyết định thời gian trả lời chất vấn.
- Có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân kịp thời chấm dứt những việc làm trái pháp luật, chính sách của Nhà nước trong cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc của cán bộ, công chức, nhân viên cơ quan, tổ chức, đơn vị đó; có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước về việc thi hành pháp luật, chính sách của Nhà nước về những vấn đề thuộc lợi ích chung. Cơ quan hữu quan có trách nhiệm trả lời kiến nghị của đại biểu.
- Đại biểu có quyền đề nghị Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu.
3.2. Thường trực Hội đồng nhân dân
Bắt đầu từ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1989 có quy định về thành lập Thường trực Hội đồng nhân dân. Quy định này được duy trì đến nay và ngày càng hoàn chỉnh. Thường trực Hội đồng nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra. Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện gồm Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Uỷ viên thường trực. Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Theo quy định, thành viên của Thường trực Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là thành viên của Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Quy định này nhằm bảo đảm tính độc lập và khách quan của Hội đồng nhân dân trong quan hệ với Uỷ ban nhân dân, đặc biệt là trong việc Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân.
Kết quả bầu Thường trực Hội đồng nhân dân phải được phải được Thường trực Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Kết quả bầu Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Phân tích các quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân hiện nay thì Thường trực Hội đồng nhân dân được thành lập để thực hiện chức năng sau đây: 1/ Tổ chức các hoạt động của Hội đồng nhân dân; 2/ Thay mặt cho Hội đồng nhân dân trong các quan hệ; 3/ Thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân.
Các nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực Hội đồng nhân dân được quy định như sau:
- Triệu tập và chủ toạ các kỳ họp của Hội đồng nhân dân; phối hợp với Ủy ban nhân dân trong việc chuẩn bị kỳ họp của Hội đồng nhân dân;
- Đôn đốc, kiểm tra Ủy ban nhân dân cùng cấp và các cơ quan nhà nước khác ở địa phương thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân;
- Giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương;
- Điều hoà, phối hợp hoạt động của các Ban của Hội đồng nhân dân, xem xét kết quả giám sát của các Ban của Hội đồng nhân dân khi cần thiết và báo cáo Hội đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất; giữ mối liên hệ với các đại biểu Hội đồng nhân dân; tổng hợp chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân để báo cáo Hội đồng nhân dân;
- Tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để báo cáo tại kỳ họp của Hội đồng nhân dân;
- Phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó chủ lịch, Ủy viên thường trực Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp;
- Trình Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu theo đề nghị của ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt nam cùng cấp hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân;
- Phối hợp với Ủy ban nhân dân quyết định việc đưa ra Hội đồng nhân dân hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân theo đề nghị của Ban thường trực ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp;
- Báo cáo về hoạt động của Hội đồng nhân dân cùng cấp lên Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp; Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh báo cáo về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp mình lên ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ;
- Giữ mối liên hệ và phối hợp công tác với Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp; mỗi năm hai lần thông báo cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp về hoạt động của Hội đồng nhân dân.
3.3. Các ban của Hội đồng nhân dân.
Các Ban của Hội đồng nhân dân đã trải qua quá trình hình thành và phát triển. Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 chỉ quy định khi họp hội nghị, Hội đồng nhân dân các cấp có thể lập những Tiểu ban cần thiết trong thời gian hội nghị. Đến Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1962 cơ cấu này được phát triển hơn với quy định tuỳ theo nhu cầu công tác, Hội đồng nhân dân có thể thành lập các ban của Hội đồng nhân dân giúp Hội đồng nhân dân tìm hiểu ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, góp ý kiến với Hội đồng nhân dân trong việc xây dựng và thực hiện những chủ trương công tác ở địa phương. Thành viên của các ban do Hội đồng nhân dân cử trong Hội đồng nhân dân và khi cần, có thể cử thêm ng­ười ngoài Hội đồng nhân dân.
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1983 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1989 đã đẩy quy định về tổ chức các Ban lên những bước phát triển cao hơn.
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994 đã có các quy định khá hoàn chỉnh về tổ chức Ban của Hội đồng nhân dân. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 vẫn duy trì về cơ bản các quy định về Ban trong Luật 1994. Theo các quy định của các Luật 2003 hiện hành thì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thành lập ba ban: Ban kinh tế và ngân sách, Ban văn hoá - xã hội, Ban pháp chế; nơi nào có nhiều dân tộc thì có thể thành lập Ban dân tộc. Hội đồng nhân dân cấp huyện thành lập hai ban: Ban Kinh tế - Xã hội, Ban pháp chế. Ban là cơ cấu hoạt động có tính chất độc lập của Hội đồng nhân dân, trực tiếp giúp Hội đồng nhân dân, có vị trí pháp lý thấp hơn Thường trực Hội đồng nhân dân. Ban không phải là cấp dưới của Thường trực Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, trong yêu cầu về sự thống của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân có quyền điều hoà, phối hợp hoạt động của các Ban, phân công việc thẩm tra các báo cáo, đề án cho các Ban.
Số lượng thành viên của mỗi ban do Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Cũng như quy định về thành viên Thường trực Hội đồng nhân dân, Luật quy định thành viên của các ban của Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là thành viên của Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện không thể đồng thời là Thủ trưởng của các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân cùng cấp. Luật 1994 trước đây quy định Trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thể hoạt động chuyên trách, Trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp huyện không hoạt động chuyên trách. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không hoạt động chuyên trách thì hiệu quả hoạt động của Ban rất thấp. Chính vì vậy mà trong nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân 1999- 2004, theo báo cáo của 46 tỉnh, thành phố thì ở 481 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đầu nhiệm kỳ có 17 trưởng, Phó ban hoạt động chuyên trách. Đến tháng 3 năm 2003 số lượng Trưởng, Phó ban chuyên trách. Luật 2003 không có quy định về chế độ hoạt động chuyên trách của Trưởng ban, Phó ban.
Các ban của Hội đồng nhân dân thực hiện chức năng giúp Hội đồng nhân dân thực hiện một số hoạt động chuẩn bị kỳ họp và giám sát thuộc lĩnh vực nhất định. Ban có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Tham gia chuẩn bị các kỳ họp của Hội đồng nhân dân;
- Thẩm tra các báo cáo, đề án do Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân phân công;
- Giúp Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, hoạt động của Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp;
- Giúp Hội đồng nhân dân giám sát cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Trong khi thi hành nhiệm vụ, các ban của Hội đồng nhân dân có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ở địa phương cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết liên quan đến hoạt động giám sát. Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu của các Ban của Hội đồng nhân dân.
- Báo cáo kết quả hoạt động giám sát với Thường trực Hội đồng nhân dân khi cần thiết.
3.4. Kỳ họp của Hội đồng nhân dân.
Các nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: hoạt động của các đại biểu tại kỳ họp, hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, hoạt động của các Ban, hoạt động của từng đại biểu, tổ đại biểu. Trong số các hình thức hoạt động đó, kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của Hội đồng nhân dân. Bởi vì, về nguyên tắc, Hội đồng nhân dân là cơ quan hoạt động theo chế độ hội nghị nên kỳ họp phải là hình thức hoạt động cơ bản. Điều đó cũng có nghĩa là các nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân phải được thực hiện chủ yếu tại kỳ họp. Các vấn đề quan trọng ở địa phương, việc bầu các cơ cấu của Hội đồng nhân dân và thành viên Uỷ ban nhân dân, vấn đề giám sát…đều được Hội đồng nhân dân quyết định tại kỳ họp dưới hình thức nghị quyết.
Theo chế độ hội nghị, tại kỳ họp, Hội đồng nhân dân thảo luận và ra quyết định về các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Các nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải được quá nửa tổng số đại biểu nhân dân biểu quyết tán thành, trừ trường hợp biểu quyết bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân biểu quyết tán thành. Hình thức biểu quyết có thể là bỏ phiếu kín, giơ tay hoặc bằng cách khác do Hội đồng nhân dân quyết định theo đề nghị của Chủ toạ phiên họp.
Về chế độ họp, Hội đồng nhân dân các cấp họp thường lệ mỗi năm hai kỳ. Ngoài ra, Hội đồng nhân dân có thể họp chuyên đề hoặc họp bất thường theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân hoặc khi có từ một phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp yêu cầu. Trong kỳ họp thường lệ, Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định triệu tập kỳ họp chậm nhất là 20 ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp. Đối với kỳ họp bất thường, thời hạn trên là 10 ngày. Kỳ họp của Hội đồng nhân dân chỉ được tiến hành khi khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân tham gia.
Hội đồng nhân dân họp công khai. Chỉ khi cần thiết Hội đồng nhân dân mới quyết định họp kín theo đề nghị của Chủ toạ cuộc họp hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp.
Để nhân dân có thể theo dõi và giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân, Luật quy định ngày họp, nơi họp và chương trình của kỳ họp phải được thông báo cho nhân dân biết, chậm nhất là năm ngày trước ngày khai mạc kỳ họp. Các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp trên đã được bầu ở địa phương, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương được mời tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân, được phát biểu ý kiến nhưng không được biểu quyết.
Theo quy định thì chậm nhất là 5 ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp, các tài liệu cần thiết phải được gửi đến đại biểu Hội đồng nhân dân. Đây là thời gian tối thiểu để đại biểu nghiên cứu tài liệu, tham gia ý kiến hoặc biểu quyết…Điều đó là cần thiết vì trong thực tế thì thời gian họp của Hội đồng nhân dân không dài. Thường thì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh họp khoảng 3- 4 ngày, cấp huyện 2- 3 ngày, cấp xã 1- 2 ngày, có nơi thời gian họp còn ngắn hơn nữa.
Kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân là kỳ họp có tính chất đặc biệt. Nó là kỳ họp đầu tiên thực hiện sự chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân khoá trước cho Hội đồng nhân dân khoá sau, đồng thời là kỳ họp mà cơ cấu và nhân sự của Hội đồng nhân dân khoá mới được xác định. Kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Hội đồng nhân dân được triệu tập chậm nhất 30 ngày, kể từ ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Ở miền núi, nơi nào đi lại khó khăn thì kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân tỉnh được triệu tập chậm nhất là 45 ngày, kể từ ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Kỳ họp do Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá trước triệu tập và chủ toạ cho đến khi Hội đồng nhân dân bầu được Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá mới. Trong trường hợp khuyết Chủ tịch Hội đồng nhân dân thì Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân triệu tập kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khoá mới. Nếu khuyết cả Chủ tịch và Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân thì Thường trực Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp chỉ định triệu tập viên để triệu tập và chủ toạ kỳ họp cho đến khi Hội đồng nhân dân bầu được Chủ tịch Hội đồng nhân dân; ở cấp tỉnh thì do Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ định triệu tập viên.
Tại phiên họp đầu tiên của kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá, Hội đồng nhân dân bầu ban thẩm tra tư cách đại biểu theo giới thiệu của Chủ toạ kỳ họp. Căn cứ vào báo cáo của ban thẩm tra tư cách đại biểu, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết xác định tư cách các đại biểu hoặc tuyên bố việc bầu đại biểu nào đó không có giá trị. Tại kỳ họp thứ nhất này, Hội đồng nhân dân bầu ra các chức vụ sau đây:
- Chủ tịch Hội đồng nhân dân trong số các đại biểu Hội đồng nhân dân theo sự giới thiệu của Chủ toạ kỳ họp;
- Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân; Trưởng ban và các thành viên khác của các Ban của Hội đồng nhân dân trong số các đại biểu Hội đồng nhân dân theo giới thiệu của Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân trong số các đại biểu Hội đồng nhân dân theo giới thiệu của Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
- Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân theo giới thiệu của Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
- Thư ký kỳ họp của mỗi khoá theo giới thiệu của Chủ toạ kỳ họp.
Các đại biểu Hội đồng nhân dân cũng có quyền giới thiệu và ứng cử vào các chức vụ trên. Việc bầu các chức vụ được tiến hành bằng cách bỏ phiếu kín theo danh sách đề cử từng chức vụ.
Luật 2003 quy định các nghị quyết và biên bản các phiên họp nói chung, phải được Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực. Nghị quyết và biên bản các phiên họp Hội đồng nhân dân tại kỳ họp thứ nhất khi chưa bầu Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá mới do Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá trước ký chứng thực.
Trong trường hợp Chủ tịch Hội đồng nhân dân vắng mặt thì Chủ toạ phiên họp ký chứng thực nghị quyết và biên bản phiên họp của Hội đồng nhân dân.
Nghị quyết và biên bản của kỳ họp phải phải được gửi lên Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp. Nghị quyết và biên bản của kỳ họp của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được gửi lên Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ. Thời hạn gửi các nghị quyết và biên bản nói trên chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày bế mạc kỳ họp.
3.5. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Lần đầu tiên, trong Chương 3 của Luật 2003, Nhà nước ta quy định tương đối cụ thể và toàn diện về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân được thực hiện bởi Hội đồng nhân dân; Thường trực Hội đồng nhân dân; các Ban của Hội đồng nhân dân và giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân.
3.5.1. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân là hoạt động được tiến hành thường xuyên gắn liền với việc cơ quan này thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân. Giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm giám sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ họp; giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân; giám sát của các ban của Hội đồng nhân dân; giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Hội đồng nhân dân thực hiện việc giám sát thông qua các hoạt động sau:
1 Xem xét báo cáo công tác của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;
2. Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân cùng cấp;
3. Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ nhân nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;
4. Thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết;
5. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu.
Hội đồng nhân dân quyết định chương trình giám sát hàng năm theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, ban Thường trực của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và kiến nghị của cử tri ở địa phương.
Các hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân được tiến hành cụ thể như trình bày dưới đây:
Tại kỳ họp cuối năm, Hội đồng nhân dân xem xét, thảo luận báo cáo công tác hàng năm của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Tại kỳ họp giữa năm, các cơ quan này gửi báo cáo công tác đến đại biểu Hội đồng nhân dân và nếu thấy cần thiết, Hội đồng nhân dân có thể xem xét, thảo luận. Tại kỳ họp cuối nhiệm kỳ, Hội đồng nhân dân xem xét thảo luận báo cáo công tác cả nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Các báo cáo công tác nói trên, trừ các báo cáo của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân và các Ban của Hội đồng nhân dân, phải được các Ban của Hội đồng nhân dân thẩm tra theo sự phân công của Thường trực Hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân xem xét, thảo luận báo cáo theo trình tự:
- Người đứng đầu cơ quan báo cáo trình bày báo cáo;
- Trưởng Ban của Hội đồng nhân dân trình bày báo cáo thẩm tra;
- Hội đồng nhân dân thảo luận;
- Người đứng đầu cơ quan trình báo cáo có thể trình bày thêm những vấn đề có liên quan mà Hội đồng nhân dân quan tâm;
- Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về báo cáo công tác khi xét thấy cần thiết.
Tại kỳ họp Hội đồng nhân dân, việc chất vấn và trả lời chất vấn được thực hiện như sau:
1/ Đại biểu Hội đồng nhân dân ghi rõ nội dung chất vấn, người bị chất vấn vào phiếu ghi chất vấn và gửi đến Thường trực Hội đồng nhân dân. Thường trực Hội đồng nhân dân chuyển chất vấn đến người bị chất vấn và tổng hợp các chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân để báo cáo Hội đồng nhân dân;
2/ Thường trực Hội đồng nhân dân dự kiến danh sách những người có trách nhiệm trả lời chất vấn và báo cáo Hội đồng nhân dân quyết định;
3/ Việc trả lời chất vấn tại phiên họp toàn thể của Hội đồng nhân dân được thực hiện theo trình tự sau:
- Người bị chất vấn trả lời trực tiếp, đầy đủ về các nội dung mà đại biểu Hội đồng nhân dân đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm, biện pháp khắc phục;
- Đại biểu Hội đồng nhân dân có thể nêu câu hỏi liên quan đến nội dung đã chất vấn để người bị chất vấn trả lời.
Thời gian trả lời chất vấn do Hội đồng nhân dân quyết định;
- Sau khi nghe trả lời chất vấn, nếu đại biểu Hội đồng nhân dân không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Hội đồng nhân dân tiếp tục thảo luận tại phiên họp đó, đưa ra thảo luận tại phiên họp khác của Hội đồng nhân dân hoặc kiến nghị Hội đồng nhân dân xem xét trách nhiệm của người bị chất vấn.
Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết.
Trong giám sát các văn bản quy phạm pháp luật, Hội đồng nhân dân có thẩm quyền giám sát đối với các văn bản quy phạm pháp luật được Uỷ ban nhân dân cùng cấp và Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp ban hành. Trong qúa trình giám sát, khi phát hiện văn bản quy phạm pháp luật được ban hành có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của mình thì Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định việc bãi bỏ văn bản đó.
Việc xem xét các văn bản quy phạm pháp luật nói trên có dấu hiệu trái pháp luật được tiến hành theo trình tự như sau:
- Đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân trình văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái pháp luật;
- Hội đồng nhân dân thảo luận. Trong quá trình thảo luận, người đứng đầu cơ quan đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể trình bày bổ sung những vấn đề có liên quan;
- Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về việc văn bản quy phạm pháp luật không trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó.
Giám sát qua các Đoàn giám sát do Hội đồng nhân dân lập ra là hình thức quan trọng của hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. Khi thực hiện nhiệm vụ giám sát, Đoàn giám sát có trách nhiệm:
1/ Thông báo nội dung, kế hoạch giám sát cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân chịu sự giám sát chậm nhất là 7 ngày trước ngày bắt đầu tiến hành hoạt động giám sát;
2/ Mời đại diện Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, các tổ chức thành viên của Mặt trận và yêu cầu đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có liên quan tham gia giám sát; cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu này;
3/ Thực hiện đúng nội dung, kế hoạch giám sát và thẩm quyền, trình tự, thủ tục giám sát theo quy định của pháp luật; không làm cản trở hoạt động bình thường của cá cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân chịu sự giám sát;
4/ Trong trường hợp cần thiết, Đoàn giám sát yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để chấm dứt hành vi vi phạm, xử lý người vi phạm nhằm khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị vi phạm và chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu, kiến nghị qua hoạt động giám sát của mình.
Việc giám sát có thể dẫn tới các hậu quả nhất định. Điều này thể hiện tính quyền lực của Hội đồng nhân dân trong hoạt động giám sát. Căn cứ vào kết quả giám sát, Hội đồng nhân dân có thể thực hiện các quyền sau:
1/ Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp;
2/ Ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết;
3/ Miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Trưởng Ban và các thành viên khác của các Ban của Hội đồng nhân dân, Hội thẩm nhân dân cùng cấp theo quy định của pháp luật;
4/ Quyết định giải tán Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân.
Việc Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu theo trình tự sau:
- Thường trực Hội đồng nhân dân trình Hội đồng nhân dân về việc bỏ phiếu tín nhiệm;
- Người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm có quyền trình bày ý kiến của mình trước Hội đồng nhân dân;
- Hội đồng nhân dân thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm.
Trong trường hợp không được quá nửa tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới thiệu để bầu người đó có trách nhiệm trình Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm người không được Hội đồng nhân dân tín nhiệm.
3.5.2. Giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân
Đối tượng giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân là hoạt động của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, hoạt động của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định chương trình giám sát hàng quý, hàng năm của mình. Căn cứ vào chương trình giám sát đã được thông qua, Thường trực Hội đồng nhân dân phân công thành viên Thường trực Hội đồng nhân dân thực hiện các nội dung trong chương trình. Các Ban của Hội đồng nhân dân có thể dh giao thực hiện một số nội dung thuộc chương trình và báo cáo kết quả với Thường trực Hội đồng nhân dân.
Thường trực Hội đồng nhân dân có thể quyết định thành lập Đoàn giám sát. Quyết định thành lập Đoàn giám sát phải xác định rõ nội dung, kế hoạch giám sát, thành phần Đoàn giám sát và cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát. Nội dung, kế hoạch giám sát của Đoàn giám sát được thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát chậm nhất là 7 ngày, trước ngày Đoàn bất đầu tiến hành hoạt động giám sát.
Đoàn giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
a) Thực hiện đúng nội dung, kế hoạch giám sát trong nghị quyết về việc thành lập Đoàn giám sát;
b) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát báo cáo bằng văn bản, cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung giám sát, giải trình những vấn đề mà Đoàn giám sát quan tâm;
c) Xem xét, xác minh những vấn đề mà Đoàn giám sát thấy cần thiết;
d) Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Đoàn giám sát có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm và khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ'chức, cá nhân bị vi phạm; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật;
đ) Chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc hoạt động giám sát, Đoàn giám sát phải có báo cáo kết quả giám sát gửi Thường trực Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định.
Trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo, Thường trực Hội đồng nhân dân giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo, có thể tổ chức Đoàn giám sát hoặc giao cho các Ban của Hội đồng nhân dân giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại địa phương.
Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Thường trực Hội đồng nhân dân yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý người vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm, đồng thời yêu cầu người có thẩm quyền xem xét, giải quyết; nếu không đồng ý với việc giải quyết của người đó thì yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của Thường trực Hội đồng nhân dân và phải báo cáo Thường trực Hội đồng nhân dân trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày ra quyết định giải quyết.
Ngoài ra, trong hoạt động giám sát, Thường trực Hội đồng nhân dân còn có các nhiệm vụ, quyền hạn khác:
- Trình Hội đồng nhân dân xem xét các văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp trong trường hợp có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Trình Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp hoặc khi có ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân yêu cầu.
- Tiếp nhận kiến nghị, chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân để chuyển đến người bị chất vấn; thông báo cho người bị chết vấn thời hạn và hình thức trả lời chất vấn.
- Điều hoà, phối hợp hoạt động giám sát của các Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân; tổng hợp kết quả giám sát, trình Hội đồng nhân dân xét, quyết định xử lý theo thẩm quyền.
3.5.2. Hoạt động giám sát của các Ban của Hội đồng nhân dân
Các Ban của Hội đồng nhân dân giúp Hội đồng nhân dân giám sát các đối tượng cũng giống như đối tượng giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân.
Các Ban của Hội đồng nhân dân quyết định chương trình giám sát hàng quý, hàng năm của mình căn cứ vào chương trình giám sát của Hội đồng nhân dân và ý kiến của các thành viên của Ban.
Các Ban của Hội đồng nhân dân giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
1. Thẩm tra các báo cáo, đề án do Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân phân công;
2. Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp trong trường hợp có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;
3. Yêu cầu Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp báo cáo về những vấn đề thuộc lĩnh vực Ban phụ trách trong trường hợp cần thiết;
4. Tổ chức Đoàn giám sát;
5. Cử thành viên đến cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét, xác minh về vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ban;
6. Tổ chức nghiên cứu, xử lý và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Để thẩm tra các báo cáo của Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp theo sự phân công của Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân tổ chức phiên họp thẩm tra báo cáo.
Việc thẩm tra báo cáo được tiến hành theo trình tự:
- Người đứng đầu cơ quan có báo cáo trình bày báo cáo;
- Đại diện cơ quan, tổ chức được mời dự phiên họp phát biểu ý kiến;
- Các thành viên của Ban thảo luận;
- Chủ tọa phiên họp kết luận.
Báo cáo thẩm tra của Ban được gửi đến Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân.
Trong việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật, các Ban của Hội đồng nhân dân có trách nhiệm thường xuyên theo dõi việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Nếu phát hiện văn bản quy phạm pháp luật hay nghị quyết có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp thì các Ban của Hội đồng nhân dân có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thông báo cho Ban của Hội đồng nhân dân biết việc giải quyết. Quá thời hạn nói trên mà không trả lời hoặc giải quyết không đáp ứng với yêu cầu thì Ban của Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với Thường trực Hội đồng nhân dân trình Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định.
Các Ban của Hội đồng nhân dân được tổ chức Đoàn giám sát căn cứ vào chương trình giám sát của mình hoặc qua giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, qua phương tiện thông tin đại chúng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc được Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân giao.
Việc thành lập Đoàn giám sát, nội dung, kế hoạch giám sát, thành phần Đoàn giám sát và cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát do Ban quyết định. Nội dung, kế hoạch giám sát của Đoàn giám sát được thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát chậm nhất là 7 ngày, trước ngày Đoàn bắt đầu tiến hành hoạt động giám sát.
Đoàn giám sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Thông báo nội dung, kế hoạch giám sát cho cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát, chậm nhất 1là bảy ngày trước ngày bắt đầu tiến hành hoạt động giám sát;
- Mời đại diện Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, các tổ chức thành viên của Mặt trận tham gia giám sát và yêu cầu đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham gia giám sát; các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu này;
- Thực hiện đúng nội dung, kế hoạch giám sát và thẩm quyền, trình tự, thủ tục giám sát theo quy định của pháp luật; không làm cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát;
- Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, Đoàn giám sát yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để chấm dứt hành vi vi phạm, xử lý người vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm;
- Chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày kết thúc hoạt động giám sát, Đoàn giám sát phải báo cáo kết quả giám sát với Ban.
Căn cứ vào tính chất, nội dung của vấn đề được giám sát, Ban tổ chức phiên họp của Ban để xem xét, thảo luận về báo cáo của Đoàn giám sát theo trình tự sau đây:
- Trưởng Đoàn giám sát trình bày báo cáo;
- Đại diện cơ quan, tổ chức được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;
- Ban thảo luận về báo cáo của Đoàn giám sát;
- Chủ tọa phiên họp kết luận; Ban biểu quyết khi xét thấy cần thiết.
Kết quả giám sát được Ban gửi đến Thường trực Hội đồng nhân dân, Hội đồng nhân dân, đồng thời gửi đến cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát. Báo cáo phải nêu rõ kiến nghị về các biện pháp cần thiết.
Trong khi thi hành nhiệm vụ, các Ban của Hội đồng nhân dân có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức ở địa phương cung cấp những thông tin, tài liệu cần thiết liên quan đến hoạt động giám sát. Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu của các Ban của Hội đồng nhân dân.
Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì ban có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý người vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm.

CHƯƠNG XVI
UỶ BAN NHÂN DÂN
1. Vị trí, vai trò và tính chất của Uỷ ban nhân dân.
Trong một cách phân loại truyền thống, bộ máy nhà nước được chia ra thành bốn hệ thống: hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, hệ thống cơ quan toà án và hệ thống cơ quan kiểm sát. Hệ thống cơ quan quản lý gồm có Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp. Theo Điều 118 của Hiến pháp 1992 thì các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh);
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã (gọi chung là cấp huyện);
Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường (gọi chung là cấp xã).
Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở các đơn vị hành chính do luật định.
Trên cơ sở quy định trên đây của Hiến pháp, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2003 cũng như tất cả các luật về tổ chức chính quyền địa phương trước đó, vẫn xác định ở tất cả các đơn vị hành chính cơ quan tổ chức hành chính nhà nước gọi là Uỷ ban nhân dân. Uỷ ban nhân dân là cơ quan do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Như thế, Uỷ ban nhân dân được thành lập ở cả ba cấp: cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Uỷ ban nhân dân các cấp cùng với Chính phủ tạo thành hệ thống quản lý hành chính nhà nước thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Đây là hệ thống tiến hành hoạt động quản lý hành chính một cách trực tiếp và thường xuyên trên các mặt khác nhau của đời sống xã hội với một đội ngũ cán bộ, công chức đông đảo làm việc trong nhiều loại cơ quan quản lý hành chính nhà nước khác nhau.
Xét về vị trí, vai trò và tính chất, Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, tư cách là cơ quan chấp hành Hội đồng nhân dân của Uỷ ban nhân dân thể hiện ở các mặt sau đây:
- Theo sự phân công, phân nhiệm, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương hoạt động theo chế độ hội đồng; cơ quan này quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương về kinh tế, văn hóa, xã hội…Uỷ ban nhân dân với tư cách là cơ quan chấp hành có trách nhiệm tổ chức thực hiện các quyết định này của Hội đồng nhân dân;
- Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân;
- Hội đồng nhân dân có quyền bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định, chỉ thị trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp;
- Hội đồng nhân dân có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với thành viên Uỷ ban nhân dân.
Với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước, Uỷ ban nhân dân là cơ quan tiến hành các hoạt động chỉ đạo, tổ chức thực hiện (hay là quản lý hành chính nhà nước) trên các lĩnh vực quản lý khác nhau ở địa phương: kinh tế, văn hoá - xã hội và hành chính – chính trị, trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, luật, các văn bản pháp luật và chỉ đạo của cơ quan nhà nước cấp trên. Ngoài hoạt động quản lý hành chính nhà nước vừa nêu, tư cách cơ quan hành chính nhà nước của Uỷ ban nhân dân còn thể hiện trên các khía cạnh khác:
- Kết quả bầu các thành viên của Uỷ ban nhân dân phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn; kết quả bầu các thành viên Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn;
- Uỷ ban nhân dân cấp dưới chịu sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp trên, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu sự chỉ đạo của Chính phủ;
- Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác không chỉ trước Hội đồng nhân dân cùng cấp mà còn cả Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp, đối với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh - trước Chính phủ;
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên bãi bỏ văn bản trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp.
Các quy định như trên nhằm xác lập sự thống nhất và thông suốt của quản lý hành chính từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Và, nói chung, tư cách là cơ quan hành chính nhà nước của Uỷ ban nhân dân thể hiện tính độc lập tương đối của nó với Hội đồng nhân dân.
Trong quá trình phát triển của pháp luật về tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta, vị trí, vai trò và tính chất của Uỷ ban nhân dân (hoặc tên gọi khác Uỷ ban hành chính…) nhìn chung có những nét cơ bản giống nhau. Tuy nhiên, trong các giai đoạn cụ thể cũng có thể có nét đặc thù. Sắc lệnh số 63 và Sắc lệnh số 77 năm 1945 là các văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước ta về tổ chức chính quyền địa phương. Theo các văn bản này, cơ quan quản lý nhà nước địa phương là Uỷ ban hành chính. Uỷ ban hành chính do Hội đồng nhân dân (cơ quan dân cử) bầu ra và có thể bị Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm. Uỷ ban hành chính có nhiệm vụ, quyền hạn thi hành mệnh lệnh của cấp trên và quyết nghị của Hội đồng nhân dân. Về mối quan hệ trong hệ thống hành chính, các sắc lệnh này quy định Uỷ ban hành chính được bầu ra phải được cơ quan hành chính cấp trên chuẩn y, cơ quan hành chính cấp trên có quyền kiểm soát hoạt động của Uỷ ban hành chính cấp dưới và khi Uỷ ban hành chính cấp dưới không tuân lệnh cấp trên thì cơ quan hành chính cấp trên có quyền giải tán. Trong Hiến pháp 1946 (chưa được công bố), đã quy định những nét cơ bản về Uỷ ban hành chính được tổ chức ở địa phương như sau: Uỷ ban hành chính các cấp do Hội đồng nhân dân bầu ra và nhân viên của Uỷ ban hành chính có thể bị bãi miễn. Uỷ ban hành chính có trách nhiệm thi hành mệnh lệnh của cấp trên các nghị quyết của Hội đồng nhân dân địa phương. Uỷ ban hành chính chịu trách nhiệm đối với cấp trên và đối với Hội đồng nhân dân địa phương mình. Hiến pháp cũng chỉ rõ một đạo luật sẽ quy định chi tiết về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính.
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính năm 1962 cụ thể hoá Hiến pháp 1959 về chính quyền địa phương cũng có các quy định tương tự về Uỷ ban hành chính ở địa phương như trước, nhưng có xu hướng đề cao vai trò của Hội đồng nhân dân và một vài điểm khác. Hội đồng nhân dân được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Trong quan hệ với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban hành chính do Hội đồng nhân dân bầu ra và là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, đồng thời là cơ quan hành chính của nhà nước ở địa phương. Các thành viên của Uỷ ban hành chính có thể bị Hội đồng nhân dân bãi miễn. Uỷ ban hành chính chịu trách nhiệm và báo cáo công tác với Hội đồng nhân dân cấp mình. Hội đồng nhân dân có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của Uỷ ban hành chính cấp mình và của Uỷ ban hành chính cấp dưới trực tiếp. Trong quan hệ với các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước, Uỷ ban hành chính chịu trách nhiệm và báo cáo công tác với cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp. Uỷ ban hành chính ở một địa phương chịu sự lãnh đạo của Uỷ ban hành chính cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng Chính phủ. Uỷ ban hành chính cấp trên có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của Uỷ ban hành chính cấp dưới.
Các luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1983, 1989 cụ thể hoá các quy định Hiến pháp 1980 về cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương đã xác định Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và có các quy định chung về cơ quan này như sau: 1/ Trong quan hệ với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân là cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương do Hội đồng nhân dân - cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương - bầu ra. Hội đồng nhân dân có quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên Uỷ ban nhân dân. Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp. Hội đồng nhân dân có quyền bãi bỏ hoặc sửa đổi các quyết định không thích đáng của Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Đáng chú ý là theo các luật này, giữa hai kỳ họp của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân được xét các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cùng cấp, trừ các những vấn đề phải được thảo luận và giải quyết tại kỳ họp Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân và phải trình Hội đồng nhân dân phê chuẩn trong kỳ họp gần nhất[4]. 2/ Trong quan hệ với các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước, theo quy định, kết quả bầu cử Uỷ ban nhân dân phải được cơ quan hành chính nhà nước cấp trên phê chuẩn. Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân, chịu sự lãnh đạo của chính quyền cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Ủy ban nhân dân cấp trên có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ các quyết định không thích đáng của Uỷ ban nhân dân cấp dưới. Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) có quyền sửa đổi, bãi bỏ các quyết định, chỉ thị không thích đáng của Uỷ ban nhân dân các cấp.
Các luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994, vị trí, vai trò, tính chất của Uỷ ban nhân dân về cơ bản vẫn được xác định như trước. Có một số điểm khác là các luật này không quy định Uỷ ban nhân dân được giải quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân giữa hai kỳ họp. Luật 2003 quy định Hội đồng nhân dân có các quy định theo hướng tăng cường sự kiểm soát của cơ quan này đối với Uỷ ban nhân dân, đó là quyền bỏ phiếu tín nhiệm của Hội đồng nhân dân đối với các thành viên Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê chuẩn cơ cấu cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện, quyết định thành lập, sáp nhập, giải thể một số cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp theo hướng dẫn của Chính phủ.
2. Chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân.
Nghiên cứu các nhiệm vụ, quyền hạn cũng như các mối quan hệ của Uỷ ban nhân dân, có thể xác định cơ quan hành chính nhà nước này được lập ra để thực hiện các chức năng sau đây:
Thứ nhất, thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương. Đây là chức năng có tính tổ chức và chỉ đạo thực hiện vốn có và cơ bản của Uỷ ban nhân dân.
Thứ hai, thực hiện chức năng chấp hành Hội đồng nhân dân. Chức năng này thể hiện trong trách nhiệm đưa các nghị quyết của Hội đồng nhân dân vào cuộc sống ở địa phương.
Thứ ba, thực hiện chức năng bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật các văn bản và mệnh lệnh của cấp trên ở địa phương.
Thứ tư, bảo đảm sự thống nhất quản lý nhà nước từ trung ương đến cơ sở.
Các chức năng của Uỷ ban nhân dân được thể hiện qua các nhiệm vụ, quyền hạn được Luật 2003 xác định cho Uỷ ban nhân dân. Các nhiệm vụ, quyền hạn này được quy định thành các nhóm khác nhau: kinh tế; nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi và đất đai; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; giao thông vận tải; xây dựng, quản lý và phát triển đô thị; thương mại, dịch vụ và du lịch; giáo dục và đào tạo; văn hóa, thông tin, thể dục thể thao; y tế và xã hội; khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường; quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo; thi hành pháp luật; xây dựng chính quyền và quản lý địa giới hành chính. Các nhiệm vụ, quyền hạn này cũng có thể khái quát lại thành ba lĩnh vực nhiệm vụ, quyền hạn: hành chính - chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội.
Các nhiệm vụ quyền hạn của Uỷ ban nhân dân đã được xác định theo hướng định rõ nhiệm vụ, quyền hạn cho từng cấp cơ quan quản lý hành chính nhà nước theo tinh thần phân cấp quản lý mạnh cho địa phương, từng cấp quản lý ở địa phương và xác định nhiệm vụ, quyền hạn cho Uỷ ban nhân dân có tính đến đặc điểm của quản lý nhà nước ở đô thị, ở nông thôn, ở vùng hải đảo.
Ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong Luật tổ 2003, Uỷ ban nhân dân còn có các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể được quy định trong văn bản pháp luật khác của các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương.
3. Tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân
3.1. Tổ chức của Uỷ ban nhân dân.
Tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân các cấp được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
Như đã nói ở trên, Uỷ ban nhân dân được thành lập ở cả ba cấp hành chính: cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Số lượng thành viên của Uỷ ban nhân dân các cấp được quy định như sau:
- Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có từ 9 đến 11 thành viên; Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có không quá 13 thành viên;
- Uỷ ban nhân dân cấp huyện có từ 7 đến 9 thành viên;
- Uỷ ban nhân dân cấp xã có từ 3 đến 5 thành viên.
Số lượng thành viên và số Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân của mỗi cấp do Chính phủ quy định.
Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và uỷ viên. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là đại biểu Hội đồng nhân dân; các thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Việc bầu các thành viên Uỷ ban nhân dân theo thủ tục dưới đây.
Tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Hội đồng nhân dân, theo sự giới thiệu của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Hội đồng nhân dân bầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Tiếp theo, Hội đồng nhân dân bầu Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân theo sự giới thiệu của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Các đại biểu Hội đồng nhân dân cũng có quyền giới thiệu và ứng cử vào các chức vụ của Uỷ ban nhân dân.
Việc giới thiệu người ứng cử cũng như việc tự ứng cử vào các chức vụ của Uỷ ban nhân dân phải tuân theo quy định thành viên Uỷ ban nhân dân không thể đồng thời là thành viên của Thường trực Hội đồng nhân dân hay Trưởng Ban của Hội đồng nhân dân. Điều cấm này nhằm làm cho hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với Uỷ ban nhân dân có tính khách quan.
Theo quy định, kết quả bầu các thành viên của Uỷ ban nhân dân phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn; kết quả bầu các thành viên của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn. Đây là quy định một mặt nhằm bảo đảm để người giữ chức vụ trong Uỷ ban nhân dân đáp ứng các tiêu chuẩn cần thiết, mặt khác, bảo đảm tính thống nhất của bộ máy hành chính nhà nước.
Luật 2003 có quy định rằng nếu trong nhiệm kỳ khuyết Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thì Chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp giới thiệu người ứng cử Chủ tịch Uỷ ban nhân dân để Hội đồng nhân dân bầu. Người ứng cử này không nhất thiết là đại biểu Hội đồng nhân dân. Với quy định như vậy, việc bố trí Chủ tịch Uỷ ban nhân dân được dễ dàng trong các trường hợp đặc biệt.
Vai trò và mối quan hệ của các thành viên Uỷ ban nhân dân được quy định như sau. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là người lãnh đạo và điều hành công tác của Uỷ ban nhân dân. Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo phân công của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Uỷ ban nhân dân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn này. Mỗi thành viên của Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân trước Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp về phần công tác của mình và cùng với thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân cấp mình và trước cơ quan nhà nước cấp trên.
Trong cơ cấu tổ chức của Uỷ ban nhân dân còn có loại cơ quan nhà nước được gọi là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân. Các cơ quan này được lập ra ở Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (Sở và tương đương) và Uỷ ban nhân dân cấp huyện (Phòng và tương đương). Về chức năng, nhiệm vụ, các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân là cơ quan tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân cùng cấp và theo quy định của pháp luật. Hoạt động của cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân góp phần vào việc bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực từ trung ương đến cơ sở.
Về tổ chức và hoạt động, các cơ quan chuyên môn chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên. Điều này cho thấy, cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân là cơ quan trực thuộc hai chiều, nhưng chiều trực thuộc chủ yếu rõ ràng là Uỷ ban nhân dân. Theo Luật 2003, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê chuẩn cơ cấu cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện theo đề án thành lập cơ quan chuyên môn được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình và quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể một số cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp theo hướng dẫn của Chính phủ. Hiện nay, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có khoảng trên dưới 20 cơ quan chuyên môn, Uỷ ban nhân dân cấp huyện có từ 8 đến 12 cơ quan. Số lượng các cơ quan này đã giảm đi rất nhiều so với trước[5]. Một lý do quan trọng là do sự chuyển đổi cơ chế quản lý mà cơ quan chuyên môn cũng được tổ chức lại theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực như các Bộ, ngành ở trung ương.
Quy định về tổ chức bộ máy và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của cơ quan chuyên môn mỗi cấp do Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện. Việc bổ nhiệm Thủ trưởng cơ quan chuyên môn phải tuân theo quy định không cho phép người này đồng thời là Trưởng Ban của Hội đồng nhân dân, nhờ đó, bảo đảm sự giám sát khách quan của Hội đồng nhân dân đối với Uỷ ban nhân dân.
Uỷ ban nhân dân cấp xã không có không có các cơ quan chuyên môn như Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, Uỷ ban nhân dân cấp xã có các các bộ phận công tác giúp việc có tính chất chuyên môn như: văn phòng, tài chính - kế toán…
3.2. Hoạt động của Uỷ ban nhân dân.
Toàn bộ hoạt động của Uỷ ban nhân dân có thể chia thành mấy loại sau đây: hoạt động của hoạt động tập thể của các thành viên Uỷ ban nhân dân, hoạt động của từng thành viên Uỷ ban nhân dân và hoạt động của các cơ cấu thuộc Uỷ ban nhân dân: cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, bộ phận công tác có tính chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp xã.
3.2.1. Hoạt động của tập thể của Uỷ ban nhân dân.
Là một cơ quan có tính chất uỷ ban, Uỷ ban nhân dân trước hết phải là cơ quan tập hợp của những người nhất định được bầu ra và hoạt động theo chế độ tập thể. Theo chế độ hoạt động tập thể, Uỷ ban nhân dân mỗi tháng họp ít nhất một lần. Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương được mời dự các phiên họp của Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan.
Các nhiệm vụ, quyền hạn của tập thể các thành viên Uỷ ban nhân dân là các nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của cơ quan này, đồng thời đòi hỏi trí tuệ cũng như trách nhiệm tham gia của tất cả các thành viên của Uỷ ban nhân dân. Luật 2003 quy định các vấn đề sau đây phải được Uỷ ban nhân dân thảo luận tập thể và quyết định:
1. Chương trình làm việc của Uỷ ban nhân dân;
2. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách, quyết toán ngân sách hàng năm và quỹ dự trữ của địa phương trình Hội đồng nhân dân quyết định;
3. Kế hoạch đầu tư, xây dựng các công trình trọng điểm ở địa phương trình Hội đồng nhân dân quyết định;
4. Kế hoạch huy động nhân lực, tài chính để giải quyết các vấn đề cấp bách của địa phương trình Hội đồng nhân dân quyết định;
5. Các biện pháp thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân về kinh tế - xã hội; thông qua báo cáo của Uỷ ban nhân dân trước khi trình Hội đồng nhân dân;
6. Đề án thành lập mới, sáp nhập, giải thể các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân và việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính ở địa phương.
Các quyết định của Uỷ ban nhân dân phải được quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban nhân dân biểu quyết tán thành.
3.2.2. Hoạt động của các thành viên Uỷ ban nhân dân.
Uỷ ban nhân dân là cơ quan hoạt động theo chế độ tập thể như đã nói ở trên. Tuy nhiên, để phù hợp với đặc điểm của hoạt động quản lý hành chính, yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan này cũng như trách nhiệm của từng cá nhân thành viên Uỷ ban, bắt đầu từ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 1994, bên cạnh chế độ hoạt động tập thể, đã chú trọng đề cao chế độ thủ trưởng cũng như đề cao vai trò của từng thành viên khác của Uỷ ban nhân dân trong hoạt động. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2003 tiếp tục duy trì và làm rõ thêm quan điểm này. Theo đó, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là người lãnh đạo và điều hành công việc của Uỷ ban nhân dân. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có các nhiệm vụ, quyền hạn sau:
1. Lãnh đạo công tác của Uỷ ban nhân dân, các thành viên của Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân mà cụ thể là:
a) Đôn đốc, kiểm tra công tác của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp mình và Uỷ ban nhân dân cấp dưới trong việc thực hiện Hiến pháp, luật, các văn bản của' cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cùng cấp;
b) Quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp mình, trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền của tập thể Uỷ ban nhân dân;
c) Áp dụng các biện pháp nhằm cải tiến lề lối làm việc; quản lý và điều hành bộ máy hành chính hoạt động có hiệu quả; ngăn ngừa và đấu tranh chống các biểu hiện quan liêu, vô trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác của cán bộ, công chức và trong bộ máy chính quyền địa phương;
d) Tổ chức việc tiếp dân, xét và giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
2. Triệu tập và chủ tọa các phiên họp của Uỷ ban nhân dân;
3. Phê chuẩn kết quả bầu các thành viên của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; điều động, đình chỉ công tác, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, cách chức, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức nhà nước theo sự phân cấp quản lý;
4. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản trái pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân cấp mình và văn bản trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp;
5. Đình chỉ việc thi hành nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ;
6. Chỉ đạo và áp dụng các biện pháp để giải quyết các công việc đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, cháy, nổ, dịch bệnh, an ninh, trật tự và báo cáo Uỷ ban nhãn dân trong phiên họp gần nhất;
7. Ra quyết định, chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Các thành viên còn lại của Uỷ ban nhân dân: Phó Chủ tịch và các thành viên khác thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phân công và phải chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Uỷ ban nhân dân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã được giao.
3.2.3. Ngoài hoạt động của tập thể thành viên Uỷ ban nhân dân, từng thành viên Uỷ ban nhân dân trên đây, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Uỷ ban nhân dân còn phụ thuộc vào hoạt động của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện và các bộ phận công tác có tính chất chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Đối với các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, đứng đầu các cơ quan này là một cá nhân được gọi là Thủ trưởng cơ quan chuyên môn. Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân có thể đồng thời là thành viên Uỷ ban nhân dân. Cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân thực hiện các hoạt động tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn được uỷ quyền theo theo chỉ đạo của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân hoặc thành viên khác của Uỷ ban nhân dân được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân giao trách nhiệm. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân được Uỷ ban nhân dân cùng cấp quy định.









CHƯƠNG XVII
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
1. Khái quát sự ra đời và phát triển của Toà án nhân dân
Ngay sau khi ra đời Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh ngày 13-9-1945 về việc thiết lập các Toà án quân sự ở Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình, Vinh, Huế, Quảng Ngãi, Sài Gòn, Mỹ Tho.
Đến ngày 29-9-1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh thành lập thêm Toà án quân sự ở Nha Trang.
Thẩm quyền của các Toà án quân sự được qui định trong Sắc lệnh ngày 24-1- 1946. Tháng 11-1946, tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I đã thông qua Hiến pháp 1946, trong đó chương VI qui định về hệ thống các cơ quan Toà án, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Toà án.
Nghị định số 5 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ngày 1-1-1947 thì hoạt động xét xử của các Toà án thượng thẩm tạm thời đình chỉ.
Nghị định số 13 ngày 29-1-1947 của Bộ trưởng Bộ nội vụ giao cho Uỷ ban kháng chiến khu được quyền thiết lập và tổ chức Toà án quân sự khu.
Theo Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ ngày 16-12-1947 ở các khu Bộ Quốc phòng đã thành lập các Toà án binh.
Tiếp sau đó, Toà án binh tối cao cũng được thành lập theo Sắc lệnh số 45 của Chủ tịch Chính phủ ngày 25- 4-1947.
Theo Sắc lệnh số 185 của Chủ tịch chính phủ ngày 26-5-1948, ở địa phương các Toà án đệ nhị cấp cũng được thành lập.
Ngày 22 tháng 5 năm 1950 Chủ tịch Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 85 về cải cách bộ máy tư pháp, trong đó có các qui định sửa đổi như: Toà án sơ cấp nay gọi là Toà án nhân dân huyện, Toà án đệ nhị cấp nay gọi là Toà án nhân dân tỉnh, Hội đồng phúc án nay gọi là Toà phúc thẩm, Phụ thẩm nhân dân nay gọi là Hội thẩm nhân dân, khi xét xử và bào chữa Thẩm phán và luật sư không mặc áo chùng đen...
Ngày 31 tháng 12 năm 1959, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông qua Hiến pháp 1959, trong đó các qui định về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân được ghi nhận trong chương VIII, từ Điều 97 đến Điều 104. Trên cơ sở những qui định đó, tại kỳ họp thứ I, Quốc hội khoá II đã thông qua Luật tổ chức Toà án nhân dân (ngày 14-7-1960). Ngày 23-3-1961, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Sắc lệnh qui định cụ thể về tổ chức của Toà án nhân dân tối cao và tổ chức của Toà án nhân dân địa phương.
Các cơ quan Toà án được thành lập theo đơn vị hành chính từ trung ương đến cấp huyện. Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán được thay bằng nguyên tắc bầu cử Thẩm phán ở các Toà án nhân dân địa phương. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các Toà án được qui định rõ ràng và chặt chẽ hơn.
Ngày 18-12-1980, tại kỳ họp thứ VII, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI đã thông qua Hiến pháp 1980. Trong bản Hiến pháp đó, các qui định về chức năng, nhiệm vụ, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân được ghi nhận trong chương X, từ Điều 127 đến Điều 137. Trên cơ sở các qui định của Hiến pháp 1980, ngày 3-7-1981, tại kỳ họp thứ I Quốc hội khoá VII đã thông qua Luật tổ chức Toà án nhân dân. Đạo luật đó đã cụ thể hoá về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Toà án nhân dân, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động; hệ thống cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân. Theo luật này, việc quản lý Toà án địa phương, Quốc hội giao cho Bộ Tư pháp.
Ngày 15-4-1992, tại kỳ họp thứ XI Quốc hội nước Cộng hoà đã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII đã thông qua Hiến pháp 1992.
Trong bản Hiến pháp đó, các qui định mang tính nguyên tắc về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân được ghi nhận trong chương X, từ Điều 126 đến Điều 136.
Ngày 6-10-1992, tại kỳ họp thứ I Quốc hội khoá IX đã thông qua Luật tổ chức Toà án nhân dân.
Ngày 15 tháng 12 năm 2001, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X đã thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992.
Ngày 2 tháng 4 năm 2004, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X đã thông qua Luật tổ chức Toà án nhân dân.
2. Vai trò, vị trí của Toà án nhân dân trong bộ máy nhà nước
Về chức năng của Toà án nhân dân, điều 127 Hiến pháp 1992 qui định: "Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
Nhưng chức năng của Toà án không chỉ dừng lại ở việc xét xử, hoạt động xét xử của Toà án không chỉ bó hẹp ở việc áp dụng các biện pháp trừng trị, ở việc thực hiện sự cưỡng chế. Bởi vậy, ngoài việc thực hiện chức năng xét xử Toà án còn thực hiện chức năng giáo dục.
Ngoài sự cưỡng chế và giáo dục Toà án còn thực hiện chức năng phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm.
Hiến pháp 1992 qui định: Toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước; của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân (Điều 126).
Các Toà án nhân dân ở nước ta còn được giao những nhiệm vụ rất nặng nề khác là bảo vệ những giá trị xã hội rất quan trọng, có ý nghĩa lớn về mặt chính trị - xã hội, nghĩa là bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Vì đây là những giá trị không thể bị tước đoạt, những giá trị không thể thiếu được của toàn xã hội ta.
Ngoài những nhiệm vụ chung nói trên, mỗi cấp Toà án theo Luật tổ chức Toà án nhân dân còn có những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể.
Điều 19 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 qui định những nhiệm vụ và quyền hạn của Toà án nhân dân tối cao.
Điều 28 Luật tổ chức Toà án nhân dân quy định Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Theo Điều 32 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, Toà án nhân dân huyện, quận thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng.
Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 (Điều 34) qui định nhiệm vụ, quyền hạn của Toà án quân sự các cấp.
3. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân
Là một trong bốn hệ thống hợp thành của bộ máy nhà nước ở nước ta, vì vậy tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân cũng phải tuân theo những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung. Tuy nhiên, xuất phát từ chức năng đặc thù của các Toà án nhân dân là xét xử, nên tổ chức và hoạt động của nó còn phải tuân theo các nguyên tắc mang tính đặc thù đó. Những nguyên tắc đó được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 (chương X) và trong Luật tổ chức Toà án nhân dân. Chúng ta lần lượt tìm hiểu các nguyên tắc đó.
3.1. Việc xét xử của Toà án có Hội thẩm tham gia
Điều 129 Hiến pháp 1992 qui định: “Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo qui định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán".
3.2. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Nguyên tắc này được ghi nhận ở Điều 130 Hiến pháp 1992 nước ta.
3.3. Toà án xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định.
Nguyên tắc này được ghi nhận ở đoạn 1 Điều 131 Hiến pháp 1992.
3.4. Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Nguyên tắc này được qui định ở khoản 2 Điều 131 Hiến pháp 1992
3.5. Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm
Điều 132 Hiến pháp 1992 qui định nguyên tắc đó như sau: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”.
3.6. Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng
Nguyên tắc này được ghi nhận ở Điều 133 Hiến pháp 1992 với nội dung: "Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà án".
4. Hệ thống và cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân
Điều 127 Hiến pháp 1992 nước ta qui định:
“Toà án nhân dân tối cao các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt”.
4.1. Cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao
Trong hệ thống các cơ quan Toà án ở nước ta, theo Điều 134 Hiến pháp 1992, Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 qui định cơ cấu tố chức của Toà án nhân dân tối cao bao gồm:
- Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
- Các Phó Chánh án do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
- Các Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
- Thư ký Toà án nhân dân tối cao
Tổng biên chế của Toà án nhân dân tối cao do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
Toà án nhân dân tối cao có những tổ chức thích hợp. Những tổ chức đó là:
- Hội đồng Thẩm phán của Toà án nhân dân tối cao.
- Toà án quân sự trung ương, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính và các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; trong trường hợp cần thiết, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Toà chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao;
- Bộ máy giúp việc:
Bộ máy giúp việc của Toà án nhân dân tối cao bao gồm: văn phòng, Viện nghiên cứu khoa học xét xử, Ban thanh tra...
4.2. Cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được qui định trong chương III Luật tổ chức Toà án nhân dân.
Về cơ cấu, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm: Chánh án, các Phó Chánh án, các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án.
Trong tổ chức, các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm: Uỷ ban thẩm phán; các Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính; trong trường hợp cần thiết Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Toà chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao; bộ máy giúp việc.
4.3. Cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh gồm có: Chánh án, Phó Chánh án, các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án. Chánh án, Phó chánh án, các Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra theo sự giới thiệu của Uỷ ban mặt trận tổ quốc cùng cấp.
Về tổ chức của Toà án nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh không có các toà chuyên trách, không có các phòng ban.
4.4. Cơ cấu tổ chức của Toà án quân sự
Các Toà án quân sự bao gồm: Toà án quân sự trung ương, các Toà quân sự quân khu, quân chủng và tương đương, các Toà án quân sự khu vực.
Về cơ cấu, Toà án quân sự Trung ương gồm có Chánh án (là Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao), các Phó Chánh án, các Thẩm phán, các Hội thẩm quân nhân và các Thư ký Toà án. Toà án quân sự quân khu, quân chủng và tương đương; Toà án quân sự khu vực gồm có Chánh án, các Phó Chánh án, Hội thẩm quân nhân và Thư ký Toà án. Tổ chức cụ thể của Toà án quân sự các cấp được quy định trong pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự.
4.5. Về các tổ chức của nhân dân ở cơ sở giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
1. Nêu sơ lược sự ra đời và phát triển của Toà án nhân dân.
2. Nêu vai trò, vị trí của Toà án nhân dân trong bộ máy nhà nước.
3. Tổ chức và hoạt động của Toà án tuân theo những nguyên tắc nào?
4. Trình bày hệ thống và cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân.
5. Trình bày hệ thống và cơ cấu tổ chức của Toà án quân sự.
CHƯƠNG XVIII
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1. Khái quát sự ra đời và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân là một trong bốn hệ thống trong bộ máy các cơ quan nhà nước ở nước ta. So với các cơ quan nhà nước khác các cơ quan kiểm sát có lịch sử hình thành muộn hơn.
Ngày 23-11-1945 Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 64 về việc thành lập một ban thanh tra đặc biệt. Điều 4 Sắc lệnh đó qui định: “Toà án đặc biệt có: Chủ tịch Chính phủ lâm thời làm Chánh án, Bộ trưởng Bộ nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Hội thẩm. Bộ trưởng Tư pháp làm Hội thẩm thuyết trình. Một uỷ viên trong ban thanh tra đứng buộc tội".
Ngày 24-1-1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 13 về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán.
Ngày 16-2-1947 Chủ tịch Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 19 về việc thành lập Toà án binh.
Ngày 19-11-1948 Chủ tịch Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 254 về tổ chức lại chính quyền nhân dân trong thời kỳ kháng chiến.
Như vậy, từ sau cách mạng tháng Tám thành công đến khi thành lập Viện kiểm sát, theo các văn bản pháp luật nói trên; quyền công tố được giao cho những cơ quan nhà nước khác nhau. Cùng với các Thẩm phán buộc tội trong các Toà án: Chưởng lý, các Phó Chưởng lý, Tham lý, Biện lý; các cơ quan hành pháp: Chính phủ, Ban thanh tra đặc biệt, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ cũng có quyền công tố
Ngày 1-7-1959 Thủ tướng Chính phủ đã ra Nghị định số 256 qui định nhiệm vụ và tổ chức Viện công tố.
Ngày 27-8-1959, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 324 về thành lập các Viện công tố phúc thẩm.
Ngày 31 tháng 12 năm 1959, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông qua Hiến pháp 1959 trong đó các qui định về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được ghi nhận trong chương VIII, từ Điều 105 đến Điều 108.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (ngày 15 tháng 7 năm 1960).
Ngày 16- 4-1962, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh qui định cụ thể về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Tờ trình về Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960
Ngày 18-12-1980, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI đã thông qua Hiến pháp 1980. Trong bản Hiến pháp đó, các qui định về chức năng, nhiệm vụ, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được ghi nhận trong chương X, ở các Điều 127, 138, 139, 140, 141.
Ngày 3-7-1981, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá VII đã thông qua luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
Ngày 15-4-1992, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII đã thông qua Hiến pháp 1992. Trong bản Hiến pháp đó, các qui định mang tính nguyên tắc về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát được ghi nhận trong các điều 126, 137, 138, 139. 140.
Ngày 6-10-1992, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX thông qua Luật tố chức Viện kiểm sát nhân dân.
Ngày 25 tháng 12 năm 2001, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X đã thông qua Nghị quyết số 51/2001 – QH 10 sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992. Nghị quyết đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát.
Ngày 2 tháng 4 năm 2002, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Đạo luật đó có nhiều quy định mới về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
2. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ, vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước
Việc tìm hiểu vai trò, vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước được thể hiện thông qua việc làm sáng tỏ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân.
Từ qui định của Điều 137 Hiến pháp 1992 cho thấy Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng cơ bản: chức năng thực hành quyển công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.
Ngoài những nhiệm vụ chung nói trên, theo luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, mỗi cấp Viện kiểm sát đó còn có những nhiệm vụ, quyền han cụ thể. Những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các Viện kiểm sát trong từng lĩnh vực được qui định rất rõ trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, từ chương II đến chương VI.
Những nhiệm vụ cụ thể trong khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát được quy định cụ thể ở chương II, từ Điều 12 đến Điều 15 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
3. Hệ thống, cơ cấu, tổ chức các Viện kiểm sát nhân dân
Theo Điều 137 Hiến pháp năm 1992, hệ thống các Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta bao gồm:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Các Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Các Viện kiểm sát quân sự.
Theo các qui định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, về cơ cấu, các Viện kiểm sát nhân dân gồm có: Viện trưởng, Phó Viện trưởng, các Kiểm sát viên và các Điều tra viên (chỉ ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao).
- Tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm:
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Các Cục, Vụ, Viện, Văn phòng và Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát; Viện kiểm sát quân sự Trung ương.
- Tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phổ trực thuộc Trung ương gồm:
Viện trưởng Viện nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Uỷ ban kiểm sát gồm có: Viện trưởng; các Phó Viện trưởng và một số Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Các phòng và Văn phòng.
- Tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận và tương đương gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng và các Kiểm sát viên phụ trách những lĩnh vực công tác nhất định theo sự phân công của Viện trưởng.
- Viện kiểm sát quân sự các cấp.
Các Viện kiểm sát quân sự gồm có: Viện kiểm sát quân sự Trung ương; Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương; Viện kiểm sát quân sự khu vực.
Các Viện kiểm sát quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.
Viện kiểm sát quân sự trung ương thuộc cơ cấu Viện kiểm sát tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương là Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Tổ chức và hoạt động của các Viện kiểm sát quân sự, việc giám sát đối với hoạt động của các Viện kiểm sát quân sự được qui định trong Pháp lệnh về tổ chức Viện kiểm sát quân sự.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
1. Trình bày khái quát sự ra đời và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân.
2. Nêu vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước.
3. Trình bày hệ thống, cơ cấu, tổ chức các Viện kiểm sát nhân.

(1) Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, 1993, tr. 182.
(2) Hồ Chí Minh Tuyển tập, Tập I, Nxb. Sự thật, H. 1980, tr. 356.
(1) Xem: Hồ Chí Minh Tuyển tập, Nxb. Sự thật, 1980.
(1) Xem: Trường Chinh "Lời khai mạc Hội nghị toàn thể lần thứ 2 của Hội đồng bầu cử toàn quốc" ngày 7/5/1976.
(2) Xem: Tạp chí "Học tập", Số 7/1976, tr. 20.
(1) Xem: Hồ Chí Minh: Les droits des nations -"L'humanité" 1919, 18 Juillet
(1) Xem: Bình luận khoa học Hiến pháp nước CHXHCNVN, Nxb. ủy ban khoa học xã hội, H.1996, tr. 312.

(1) Báo "Nhân dân" số ra ngày 16/4/1992.
(1) Trong thời gian Quốc hội không họp thì ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ (Điều 114).
(2) Hiến pháp 1992 bỏ các đơn vị hành chính tương đương cấp tỉnh như đặc khu.
(1) Xem: Điều 28, 30 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1992.
[1] Xem Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội – Trung tâm từ điển học, H. 1994, tr. 1062.
[2] Các điều 20, 21 của Bộ luật dân sự thì ngf từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người thành niên có năng lực hành vi đầy đủ, trừ một số trường hợp được quy định là mất hoặc hạn chế năng lực này.
1 " Thuyết tam quyền phân lập" và bộ máy nhà nước tư sản hiện đại. Viện thông tin khoa học xã hội. Hà nội, 1991. Tr. 14.

2 Sdd, tr. 15
1,2 PGS, TS Bùi Xuân Đức ( Chủ biên), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt nam. NXB Công an nhân dân, 2002, Tr. 300 - 303.

1 Bình luận khoa học Hiến pháp nước CHXHCN Việt nam. NXB KHXH, Hà nội, 1995. Tr. 58, 59, 309.

1 Sđd. tr. 309

1 Luật Nhà nước Việt nam. ĐHTH Hà nội. Hà nội, 1994. Tr. 304- 308

1" Thuyết tam quyền phân lập" và bộ máy nhà nước Tư sản hiện đại. Viện thông tin KHXH.
Hà nội, 1991. Tr. 48.

1 Hội đồng Nhà nước; Hội đồng Bộ trưởng, Chính phủ liên bang
1 Luật được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VII kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 4-7/1984.
1 Luật được Quốc hội khoá IX thông qua ngày 30-9-1992.
[3]Các cơ quan nhà nước trung ương và các cơ quan Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân mặc dù hoạt động ở địa phương nhưng không thuộc khái niệm chính quyền địa phương.

[4] Riêng trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1983 Uỷ ban nhân dân còn được quy định như một cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân.
[5] Trước năm 1986, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có khoảng 35 cơ quan chuyên môn, Uỷ ban nhân dân cấp huyện khoảng từ 22 đến 25 cơ quan loại này.

Không có nhận xét nào: